30/8/15

“Lưu manh hóa" hay "Lưu manh giả danh" - Onggiaolang

onggiaolang.com



Từ điển tiếng Việt giải thích lưu manh là “kẻ lười lao động, chuyên trộm cắp, lừa đảo”.

Còn nhà nhiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn thì hiểu: “để chỉ những quan niệm hành động phi đạo đức, liều lĩnh, bậy bạ, rộng hơn là những triết lý “vô thiên vô pháp”, cho phép người ta dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích.

Còn nhớ trong một truyện ngắn, nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn nói người “tiền hậu bất nhất” chính là có phẩm chất của lưu manh. Mình hiểu lưu manh vì thiếu tự trọng, vì là người không có chính kiến, “gió chiều nào che chiều ấy”, miễn sao có lợi cho mình.

Để có một lý giải đầy đủ và toàn diện đòi hỏi phải có đóng góp của các nhà xã hội học, ngôn ngữ học, … Nhưng có thể hiểu ngắn gọn, lưu manh chính là những kẻ chỉ vì để đạt được mục đích của riêng mình mà bất chấp lẽ phải, đạo lý.

Còn trí thức, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia là “người có kiến thức sâu xa về một hay nhiều lĩnh vực hơn sự hiểu biết của mặt bằng chung của xã hội vào từng thời kỳ”

Từ điển tiếng Việt định nghĩa trí thức là “Những người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình.”

Đặng Vũ Tuấn Sơn cho rằng “người trí thức không chỉ mang trong mình những tri thức không ngừng được chuyển hóa và hoàn thiện mà còn phải là người có tinh thần đóng góp cho xã hội trước hết là của cải vật chất, cao hơn là tầm tư tưởng”.

Bên cạnh học vấn, tri thức phong phú, theo Nguyễn Minh Thuyết người trí thức còn có một đặc điểm là “thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát phẩm hạnh này thành nguyên tắc sống: “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (nghĩa là: giàu sang không làm hư hỏng, nghèo khó không khiến đổi lòng, quyền uy không khuất phục nổi). Trong lịch sử đã có biết bao tấm gương liêm khiết, chính trực, khảng khái của người trí thức. Xã hội trọng vọng trí thức không chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này.”

Như vậy, một cách đơn giản, có thể hiểu trí thức là những người có hiểu biết về một lĩnh vực nào đấy trên mức bình thường (tài) và trung thực, khảng khái (đức).

Xã hội nhiều lưu manh là một xã hội nhiễu loạn, bất an, cuộc sống của người dân lành không được đảm bảo.

Còn xã hội mà trí thức được tôn trọng (chưa hy vọng nhiều, ra ngõ gặp trí thức) là xã hội văn minh, những giá trị tinh thần, đạo đức được tôn vinh là xã hội lành mạnh, là mơ ước của con người.

Tri thức và lưu manh có một khoảng cách xa như vậy, sao gần đây, có nhiều người nói tới hiện tượng lẫn lộn: trí thức bị lưu manh hóa và một thành ngữ mới “lưu manh giả danh trí thức”?

Từ sau 1945, nhiều trí thức Tây học (do các nhà trường Pháp đào tạo trong và ngoài nước) và các văn nghệ sĩ đã đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến. Họ đã mang tài năng và vốn hiểu biết phong phú trong từng lĩnh vực riêng, đóng góp vô cùng to lớn cho cách mạng trong những ngày đầu còn trứng nước. Ban đầu, họ rất được trọng dụng, nắm những cương vị then chốt trong bộ máy. Nhưng không lâu sau đó, những người lãnh đạo đã thấy tư tưởng họ không thuần nhất, có nhiều biểu hiện không có lợi cho sự nghiệp cách mạng, họ không còn được trọng dụng như ban đầu. Cùng với yêu cầu phải “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, từ nay, bên cạnh người làm cấp trưởng là các trí thức cũ, có những người dù chỉ làm cấp phó nhưng được tin cậy hơn, nắm thực quyền lớn hơn mặc dù trình độ rất hạn chế. Có số ít người để giữ cốt cách đã lặng lẽ bỏ cuộc và rơi vào quên lãng. Còn những ai dám “cả gan cầm đuốc đốt trời” thì lập tức bị loại khỏi cuộc sống .

Những trí thức đáng kính trọng dần bị vô hiệu hóa, cái đáng trách ở họ là sự im lặng, im lặng để người ta dùng tên tuổi, dùng uy tín của họ che đậy cho những việc làm không đúng đắn. Chưa dám coi đây là những biểu hiện của đám người bị tha hóa, nhưng rõ ràng họ đã không giữ được phẩm chất của người trí thức. Sự xuống cấp toàn diện đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay có một phần trách nhiệm của các vị.

Còn phải kể tới một số người, không rõ vì nguyên nhân gì đã làm những công việc trái hẳn với lương tri của người trí thức. Họ làm sử nhưng bịa đặt ra những chuyện như đốt kho xăng, cắm cờ, …khiến cho bao lớp người ngộ nhận; họ thờ ơ, thậm chí đồng lõa trước những biểu hiện vô tình bất nghĩa, chà đạp lên những người đồng chí đã từng một thời cùng nhau “nếm mật nằm gai” chỉ vì quan điểm trái ngược. Họ sẵn sàng tung hô những giá trị ảo với mục đích làm lợi cho sự nghiệp cách mạng, … mặc dù những việc làm của họ đã khiến biết bao người lầm tưởng, dẫn tới lạc lối. Dù có trân trọng những con người có quá khứ vàng son không thể phủ nhận đây là biểu hiện hạ cấp.

Sau kháng chiến chống Pháp, nhiều trí thức được đào tạo nhờ Liên Xô, Trung Quốc, và các nước xã hội chủ nghĩa khác.… Phần lớn họ xuất thân từ những gia đình có truyền thống, đã từng ngồi trên ghế nhà trường Pháp trước đây, đã được đào tạo trở thành những người có tài năng ở nhiều lĩnh vực. Về phẩm chất, xuất thân từ những gia đình tử tế, họ cũng có những đức tính đáng quý trọng. Nhưng cuộc sống khắc nghiệt đã khiến họ không còn giữ được con người mình. Sự trì trệ của nền kinh tế, khoa học trong nước khiến tài năng bị bào mòn. Để tồn tại, họ không chỉ im lặng mà nhiều khi còn phải đồng lõa. Họ đưa ra những công trình nghiên cứu như: ngô có nhiều chất dinh dưỡng hơn gạo, phân trâu có thể dùng để nuôi lợn, …để phục vụ cho đường lối chính sách. Đổi lại, họ được tem phiếu mua hàng cung cấp ở Nhà Thờ, Tôn Đản. Rồi dần dần, để giữ lấy những vị trí của mình đã có, để tồn tại cao hơn mức đòi nghèo, họ phải tự đánh mất cái tôi như cách nói của nhà văn Nguyễn Khải. Có thể coi thế hệ trí thức này không ít người mang những phẩm chất của lưu manh.

Từ sau cải cách ruộng đất, một lớp “trí thức” mới được hình thành. Phần lớn những người được tin cậy đều xuất thân từ công nông. Chỉ cần hai năm, từ trình độ biết đọc biết viết (chưa dám nói là đọc thông viết thạo), họ học hết chương trình trung học phổ thông trong các trường Bổ túc công nông rồi thẳng tiến vào các trường đại học trong và ngoài nước qua những cuộc thi tuyển hình thức. Rồi chẳng bao lâu, họ trở thành các phó tiến sĩ cũng mang tiếng được đào tạo ở nước ngoài mặc dù với thời gian đó, không biết họ đã thành thạo được ngôn ngữ của nước sở tại? Chỉ sau một đêm, họ trở thành tiến sĩ và đã và đang là những trí thức được trọng dụng, đặc biệt là trong các ngành khoa học xã hội. Những phát ngôn của họ nhiều khi được coi là định hướng nhưng biết được quá trình tích lũy tri thức ấy, chẳng thể ai nói họ có vốn tri thức cần thiết trong lĩnh vực hoạt động của mình. Bằng cấp đối với họ chỉ để thỏa mãn tiêu chuẩn giành một ghế lãnh đạo, chứ hoàn toàn không phải vì lòng ham hiểu biết, nỗi khát khao tiếp thu và đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Rất nhiều cái bằng có được do thuê người viết, nhờ “đạo” từ đủ loại sách vở, hoặc bằng cách kẹp vào luận án do do họ đứng tên nhiều phong bì. Cho nên, đích thực họ là những kẻ giả danh.

Về phẩm chất, những khiếm khuyết do thành phần xuất thân, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh, cùng với thói dối trá chi phối toàn bộ cuộc sống đã khiến cho những con người này chẳng bao giờ tiếp cận và nói lên sự thật ngay cả trong những công trình nghiên cứu. Những phát kiến của họ chỉ nhằm chứng minh cho đường lối chính sách là đúng đắn, sự lãnh đạo là tuyệt đối sáng suốt. Họ sẵn sàng chấp hành lệnh của các cơ quan quyền lực trong lĩnh vực hoạt động của mình, bất chấp sai đúng. Vụ Nhã Thuyên mới đây là một biểu hiện. Luận văn thạc sĩ đã được một Hội đồng chấm điểm 10, rồi lại bị một Hội đồng khác, họp kín để phủ nhận chắc chắn là một cách hành xử không đàng hoàng. Rồi tác giả luận văn bị mất việc quả là một đòn đánh dưới thắt lưng. Tất cả đều không xứng đáng là cách hành xử của người tử tế. Rất tiếc trong cái Hội đồng “chuột” này có một người mang học hàm đáng kính có thân phụ vẫn được coi là một trí thức lớn trước đây.

Quả là ở nước ta hiện nay, có cả hai biểu hiện: trí thức bị lưu manh hóa và lưu manh giả danh trí thức.

Hoàn toàn không khó để nhận ra. 


(nguồn : onggiaolang.com)

Không có nhận xét nào: