3/7/16

Nền tự do của Hoa Kỳ



Người Mỹ thường nói rằng: “Hoa Kỳ là một xứ sở tự do, tôi có thể nói gì tôi muốn nói ra” hoặc là“tôi muốn bầu cho ai tùy ý tôi, chính quyền không thể bắt buộc tôi điều gì”. Các lời tuyên bố như kể trên rất đúng và đã được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ.



american-billofrights 
I. Tự do Ngôn Luận
Năm 1791, 10 Tu Chính Án đầu tiên thuộc Hiến Pháp Hoa Kỳ đã được Quốc Hội phê chuẩn để bảo đảm các tự do cá nhân trong đó Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ các tự do tôn giáo, ngôn luận, báo chí và hội họp, còn các Tu Chính Án từ thứ tư tới thứ sáu không cho phép chính quyền xâm phạm vào các gia đình tư nhân và nói rõ các quyền lợi của một người bị tố cáo về các trọng tội. Sở dĩ Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Luật Dân Quyền (the Bill of Rights) gồm 10 Tu Chính Án kể trên bởi vì các nhà lập quốc Bắc Mỹ vào thời thuộc địa đã e sợ bạo quyền của Vua nước Anh và muốn phòng ngừa chính quyền mới có thể phủ nhận các tự do căn bản của người dân. Lý thuyết Khế Ước Xã Hội (the socialcontract theory) của John Locke đã minh xác rằng người dân lập ra chính quyền để phục vụ các nguyện vọng của họ. Họ muốn thiết lập một chính quyền có đủ quyền lực để thi hành luật pháp và bảo vệ người dân, chứ không phải đàn áp người dân.
Các nhà lập quốc Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 18 cũng lo ngại rằng trong xã hội, khối người đa số sẽ dùng chính quyền để đàn áp khối người thiểu số, và khối đa số sẽ đặt ra các luật lệ để giới hạn các tự do của những người không đồng ý với mình. Nhưng làm sao cân bằng được các quyền lợi trừu tượng về tự do với các lợi ích cụ thể về trật tự, luật pháp và hòa bình? Sự tự do ngôn luận chẳng hạn thường bị đánh giá nhiều hơn theo cách trừu tượng, chẳng hạn như trong thời chiến, có người chủ trương nên đầu hàng và quyền phát biểu ý kiến này đã bị từ chối bằng các quy luật của tình trạng khẩn trương. Các nhà chính trị nắm quyền có thể lạm quyền, dùng tình trạng khẩn trương để giới hạn tự do ngôn luận.
 1. Các nguyên tắc về tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là một quyền căn bản trong một xã hội tự do. Nền dân chủ sẽ bị đe dọa nếu người dân không được phép tự do chia xẻ với nhau các ý tưởng, diễn tả các ý kiến một cách cởi mở, thảo luận với nhau và ngay cả chỉ trích các nhân viên chính quyền và các chính sách công. Tuy nhiên, việc lạm dụng tự do ngôn luận cũng sẽ làm hại các cá nhân và xã hội, vì vậy cũng có các trường hợp trong đó quyền tự do ngôn luận của người dân bị giới hạn. 
Vào năm 1927, vị chánh án Tòa Tối Cao Louis D. Brandeis đã nói về ý tưởng trong Tu Chính Án Thứ Nhất như sau:Các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã tin tưởng rằng tự do suy nghĩ và nói ra được coi là cần thiết để khám phá và phổ biến các sự thật chính trị, và nếu không có tự do ngôn luận và hội họp, các thảo luận sẽ vô ích…, thảo luận công cộng là một nghĩa vụ chính trị và đây là nguyên tắc căn bản của chính quyền. 
Tự do ngôn luận đã là nguyên do của nhiều vụ kiện trên Tòa Án Tối Cao. Ngôn luận có thể gồm nhiều hình thức. Tòa Tối Cao đã phân biệt ba loại ngôn luận: ngôn luận thuần túy (pure speech), ngôn luận với hành động (speech-plus action) và ngôn luận biểu tượng (symbolic speech). 
Ngôn luận thuần túy là cách truyền thông chỉ bằng lời nói (spoken word) bao gồm các thảo luận đối mặt nhau, các câu chuyện qua điện thoại, các tranh luận trong lớp học, trong các buổi mít tinh và các phổ biến qua truyền thanh và truyền hình. Ngôn luận thuần túy có thể là khô khan, buồn tẻ hay mang tính xúc cảm (emotional). Hai đặc tính của thứ ngôn luận này là ngôn luận thuần túy chỉ dùng lời nói để chuyển đạt các ý kiến hay các cảm xúc, và thính giả hay người nghe thu nhận tin tức đó do tự nguyện, vì vậy ngôn luận thuần túy không vi phạm các quyền lợi của người khác. 
Ngôn luận với hành động mang các hình thức gồm diễn hành, ca hát, đứng đình công hay trưng ra các biểu ngữ. Mục đích của các hành động này là gây ra sự chú ý, quan tâm của những người khác, những người qua đường, hay phản đối nhóm đối lập. Bản chất của ngôn luận dĩ nhiên là hợp hiến nhưng các hành động đi kèm với ngôn luận có thể bị giới hạn bởi một số luật lệ. Thí dụ đi diễn hành trên công viên, trên các vỉa hè của thành phố, trên sân đá bóng có thể bị coi là bất hợp pháp bởi vì đây là những nơi không phải dành cho công việc truyền thông. 
Việc đứng đình công cũng là một hành động thường thấy bên ngoài các nhà máy, các cửa hàng, các trường học hay bệnh viện vì chính sách của những cơ sở này bị nhiều người phản đối. Họ mang theo các tấm biểu ngữ và bước đi trong trật tự. Qua vụ án Thornbill v. Alabama -1940, Tòa Tối Cao đã chấp nhận việc đứng đình công một cách hòa bình bằng Tu Chính Án Thứ Nhất nhưng tới năm sau, qua vụ án nghiệp đoàn tài xế các xe chở sữa Milk Wagon Driver Union v. Meadowmoor Dairies – 1941, Tòa đã giới hạn quyền đứng phản đối (picketing) khi có sự đe dọa về bạo lực và quyền hạn này không được trái ngược với các luật lệ đang hiệu lực của tiểu bang. 
Loại thứ ba của tự do ngôn luận là ngôn luận biểu tượng. Trong loại ngôn luận này, các hành động và cách phản đối đã thay thế những lời nói trong việc trình bày các ý tưởng hay lời hô hào, vì vậy một vài hình thức của loại ngôn luận này được tòa án coi là hợp hiến, một số khác bị giới hạn. Thí dụ về các trường hợp này là cách phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1956, nhiều thanh niên Hoa Kỳ đã chống lại lệnh gọi nhập ngũ. Để bày tỏ sự phản đối, 4 thanh niên đã đốt thẻ động viên và đã bị bắt. Qua vụ án United States v. O’Brien, Tòa Tối Cao đã đồng ý về việc bắt giữ các sinh viên kể trên nhưng vào năm sau, sau vụ án Tinker v. Des Moines School District, Tòa Tối Cao lại ra lệnh rằng các nhân viên trường học không được phép đuổi các học sinh mang băng tay màu đen, một biểu tượng phản đối chiến tranh. Như vậy tại sao đốt thẻ động viên là một việc làm trái luật, trong khi đeo băng tay màu đen chống chiến tranh lại là một ngôn ngữ biểu tượng được luật pháp cho phép? Tòa Tối Cao đã cho rằng đốt thẻ động viên là một việc làm ngăn trở chức năng chính thức của chính quyền tức là chức năng tổ chức quân đội để bảo vệ quốc gia, còn việc đeo băng tay chỉ là cách biểu hiện một ý kiến (opinion). 
Năm 1976, Tòa Tối Cao cũng phán quyết rằng việc đốt lá cờ Mỹ là một cách biểu lộ không chấp nhận được của ngôn ngữ biểu tượng rồi tới năm 1989, Quốc Hội đã thông qua một đạo luật ngăn cấm việc xúc phạm tới lá quốc kỳ. Vi phạm luật này bị coi là một trọng tội có thể bị giam một năm và phạt $1,000. Tóm lại, ngôn ngữ biểu tượng (symbolic speech) là loại tự do ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ nếu không gây ra bạo động và cần phải phân biệt giữa ngôn ngữ (speech) và hành vi(conduct) và việc đốt thẻ động viên là một hành vi ở bên ngoài sự bảo vệ của ngôn ngữ biểu tượng. 
2. Các giới hạn đặt vào tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là một nguyên tắc hiến định căn bản nhưng cũng bị giới hạn trong một số trường hợp. Các tòa án đôi khi phải cân nhắc xem nguyên tắc về tự do ngôn luận có tương phản với các yếu tố khác không, chẳng hạn nền an toàn công cộng, sự an ninh quốc gia và lợi ích an sinh của nhiều người khác. 
Mọi công dân của một quốc gia đều phải biết rằng chính quyền có quyền tự bảo vệ khỏi các hành động như phá hoại, do thám, phản bội. Các lời nói dùng để khuấy động việc nổi loạn hay biện hộ cho việc lật đổ chính quyền được gọi là lời xúi dục khởi loạn(seditious speech) và cách xúi dục khởi loạn (sedition) nói một cách tổng quát, thường liên quan tới sự phản nghịch, sự đòi lật đổ chính quyền hay các trọng tội khác chống lại chính quyền. Kể từ thời thuộc địa, các người Bắc Mỹ đã tin tưởng rằng quyền chỉ trích chính phủ và các nhân viên được coi là căn bản trong một xã hội tự do. Như vậy các chỉ trích chính trị khi nào trở thành việc xúi dục khởi loạn?  Các chỉ trích đó có được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ không? 
Tại Hoa Kỳ vào thời lập quốc, các người bất đồng ý kiến với chính quyền thường bị coi làkhông yêu nước, bị bắt buộc im lặng và vấn đề tự do đã được đặt ra chỉ 7 năm sau khi Đạo Luật Dân Quyền (the Bill of Rights) được ban hành. Năm 1798, khi Tổng Thống John Adams và đảng Liên Bang (the Federalist party) tìm cách đối đầu quân sự với nước Pháp thì đạo luật về xúi dục khởi loạn (the Sedition Act of 1798) đã xác nhận là một trọng tội các lời nói hay lời viết mang tính giả tạo, ác ý, bêu xấu chống lại Tổng Thống, Quốc Hội, chính quyền, với chủ đích tạo ra sự căm ghét chính quyền Hoa Kỳ. Đạo luật này đã coi là bất hợp pháp các ngôn ngữ nói, viết, in, mang tính bất trung thành đối với chính quyền Hoa Kỳ. Bằng đạo luật này, chính quyền Adams đã truy tố hơn 20 đối thủ chính trị và 10 người bị kết tội xúi dục khởi loạn (sedition). Khi lên làm Tổng Thống, ông Thomas Jefferson đã ân xá cho những người bất đồng chính kiến và Quốc Hội đã bồi hoàn lại các số tiền phạt. 
Tới thời Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, chính quyền Hoa Kỳ đã không dùng quyền lực để đàn áp các phát biểu chính trị ngoại trừ các tờ báo ủng hộ chế độ nô lệ bị đóng cửa. Thế nhưng tới đầu thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất, tại Hoa Kỳ đã tràn ngập làn sóng bất dung thứ (intolerance). Sự thù ghét các người Đức, các người Cộng Sản và các kẻ vô chính phủ (anachists) đã dẫn tới đạo luật về do thám (the Espionage Act) năm 1917 và đạo luật về xúi dục khởi loạn năm 1918 (the Sedition Act of 1918). Đạo luật về do thám coi việc bất tuân lệnh trong quân đội và cản trở việc đầu quân là các tội đại hình, coi là trọng tội việc bày tỏ sự bất trung, dùng các lời lẽ thô tục, chửi bới chính quyền Hoa Kỳ, Hiến Pháp, quân đội, quốc kỳ, quân phục, hay các hành động và lời nói ủng hộ đế quốc Đức… hoặc chống lại chính nghĩa của Hoa Kỳ. Vào thời kỳ này, Tổng Giám Đốc Bưu Điện được ban quyền kiểm duyệt các thư từ, sách báo. Vài tạp chí và nhật báo nổi tiếng bị từ chối không cho gửi bằng đường bưu chính như tờ Saturday Evening Post và tờ The New York Times vì lúc bấy giờ, việc kiểm duyệt thư từ không bị coi là vi phạm Tu Chính Án Thứ Nhất, vì việc xử dụng Bưu Điện được coi là một đặc quyền (privilege), không phải là một quyền lợi (right). 
Vấn đề tự do ngôn luận lần đầu tiên được đưa ra công lý khi Charles T. Schenck, một nhân viên của đảng Xã Hội, bị truy tố theo đạo luật do thám vì đã cho in và phân phối 15,000 tập sách mỏng, cho rằng việc động viên là một hình thức nô lệ nên đáng bị chống đối. Ông Schenck đã kháng cáo lên Tòa Tối Cao, nói rằng việc kết án ông là vi phạm Tu Chính Án Thứ Nhất. Tòa Tối Cao trong bản án Schenck v. United States -1919, đã xác nhận hiệu lực của đạo luật do thám và việc kết tội kể trên. Tòa đã phán quyết rằng viết ra và phân phối các tài liệu chống đối như vậy trong thời kỳ chiến tranh đều bị trừng phạt thích đáng. Vị thẩm phán Oliver Wendell Holmes đã nói rằng tự do ngôn luận không được coi là tuyệt đối và để phân biệt lời nói được bảo vệ bởi Tu Chính Án thứ nhất và lời nói không được bảo vệ, quan tòa Holms đã nói các từ ngữ (words) có thể là các võ khí… vấn đề đặt ra trong mỗi trường hợp là các từ ngữ dùng tới có gây nên sự nguy hiểm rõ ràng và hiện tại để tạo ra các điều xấu mà Quốc Hội có quyền cấm đoán…. Từ đó, có cách trắc nghiệm về nguy hiểm rõ ràng và hiện tại(the clear and present danger test) như sau: chính quyền có quyền giới hạn ngôn luận để tránh các điều xấu nghiêm trọng và tức thời (grave and immediate evils). Lời nói bị kết tội nếu tạo ra nguy hiểm lớn vào lúc hiện tại (present) và tòa án sẽ quyết định tùy theo sự nguy hiểm đối với sự an lành công cộng (public welfare) và quyền tự do ngôn luận. 
Kể từ thời đó, Charles Schenck là một trong hàng ngàn người đã bị bắt giam vì chống đối nỗ lực chiến tranh. Một nhà lãnh đạo của đảng Xã Hội là ông Eugene Debs, người đã từng ra tranh cử chức vụ tổng thống nhiều lần, cũng bị kết án 10 năm trong tù vào năm 1918 vì lời buộc tội Hoa Kỳ. Trong vụ án Abrams v. United States, Tòa Tối Cao xác nhận việc kết án Abrams vì đã viết ra các tập sách mỏng phản đối Tổng Thống Woodrow Wilson gửi quân đội Mỹ chống chính quyền Bolshevik mới được thành lập tại nước Nga. Vụ án Abrams này đã đặt ra một tiêu chuẩn xét xử mới, đó là cách trắc nghiệm dụng ý xấu (the bad tendency test). Phương pháp này đã cho phép chính quyền truy tố các người dùng tự do ngôn luận để chỉ trích chính phủ, ngay cả khi họ không tạo ra sự nguy hiểm rõ ràng và hiện tại. 
Sự việc Tòa Tối Cao không giới hạn các đạo luật do thám và xúi dục khởi loạn đã khiến cho có hàng loạt các vi phạm vào nền tự do cá nhân của những người bất đồng chính kiến về chính trị. Ngày 7-11-1919, 250 hội viên của Nghiệp Đoàn Công Nhân Nga (the Union of Russian Workers) đã bị cảnh sát bắt giam và hành hạ, 39 người sau đó bị trục xuất. Bộ Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Mitchell Palmer đã tung ra một chiến dịch săn bắt trong hai năm. Nhiều người đã bị truy tố theo các đạo luật xúi dục khởi loạn của liên bang và tiểu bang. Theo sử gia William Lechtenburg ông Palmer đã vi phạm các tư gia, các bộ chỉ huy nghiệp đoàn, các phòng họp. Nhiều người bị giam giữ mà không được liên lạc với người nhà (incommunicado), bị từ chối về cố vấn pháp lý, bị xét xử theo cách “tòa án nhân dân”(kangaroo trial)… Tại Detroit, 300 người đã bị bắt vì các tố cáo ngụy tạo, bị giam trong tuần lễ và ngủ trên sàn nhà trơ trụi, bị từ chối thực phẩm trong 24 giờ…. Các vị quan tòa Tối Cao vào thời đó đã không đủ can đảmđể nói ra các vi phạm luật lệ của ông Palmer. Ông Palmer còn vận động việc ra tranh cử chức vụ Tổng Thống và tiên đoán sẽ có một âm mưu lật đổ lớn lao. Rồi âm mưu này đã không xẩy ra khiến cho ông Mitchell Palmer bị mất uy tín và cơn sốt về xúi dục nổi loạn bị xét lại nhưng đạo luật do thám vẫn được duy trì. 
Trong các thập niên 1920 và 1930, việc chống lại các người cấp tiến (radicals) đã giảm đi nhưng vào cuối thập niên sau này, đã có một loạt các biện pháp của liên bang để truy tố các người Cộng Sản. Ngay trước Đại Chiến Thứ Hai, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo Luật Smith (the Smith Act of 1940) kết tội các hành vi: (1) biện hộ cho công việc lật đổ bằng bạo lực bất cứ một chính quyền nào của Hoa Kỳ, (2) âm mưu vào một cuộc nổi loạn (rebellion), (3) điều hành hay tham gia vào một tổ chức chủ trương khởi loạn. Năm 1948, vì bị các người bảo thủ tố cáo rằng chính quyền Hoa Kỳ quá mềm yếu đối với các người Cộng Sản, Tổng Thống Harry S. Truman đã cho phép Bộ Tư Pháp truy tố 11 lãnh tụ của đảng này. 
Năm 1950, Thượng Nghị Sĩ Joseph McCathy của tiểu bang Wisconsin đã phát động một phong trào lùng kiếm các người Cộng Sản và những kẻ bị nghi ngờ liên hệ với các đảng viên này, gồm cả các nhân viên chính phủ, các giáo chức, các diễn viên… Các người bất đồng chính kiến với ông McCathy đã bị dán cho nhãn hiệu tìm cách lật đổ (subversive). Nhiều tiểu bang đã ra các đạo luật cấm đoán các tự do về tư tưởng chính trị và cấm phổ biến các ý tưởng nào mà các người bảo thủ không đồng ý. Quốc Hội thời đó cũng thông qua một đạo luật mà Tổng Thống Truman đã phủ quyết, đạo luật này đòi hỏi mọi người Cộng Sản phải đăng ký với chính quyền liên bang và sau đó, chính Tổng Thống Truman đã phải gọi đạo luật này là mối nguy hiểm lớn nhất cho các tự do ngôn luận, báo chí và hội họp, kể từ đạo luật cấm xúi dục khởi loạn năm 1798. 
Kể từ cuối thập niên 1950 tới đầu thập niên 1960, cơn kích động quá độ (hysteria) về chống Cộng Sản bắt đầu giảm bớt. Một số vị quan tòa có đầu óc cởi mở hơn được bổ nhiệm vào Tòa Án Tối Cao nên kể từ lúc này, Tòa Tối Cao bắt đầu dùng quyền lực của mình để bảo vệ nền tự do tư tưởng và các tự do cá nhân. Năm 1956, Tòa Tối Cao đã bác bỏ các đạo luật xét xử xúi dục khởi loạn của các tiểu bang và phán quyết rằng Đạo Luật Smith của năm 1940 là một luật quốc gia và tiểu bang không có quyền xử dụng, rồi vào năm sau, Tòa cũng đòi hỏi chính quyền phải trưng ra các bằng cớ rằng những người Cộng Sản thực sự tuyên truyền dân chúng thi hành một hành động gì mà không phải là tin tưởng vào một điều gì. 
Năm 1956, Tòa Tối Cao vô hiệu một đạo luật của tiểu bang Arizona đòi hỏi các viên chức của tiểu bang phải ký lời thề trung thành (a loyalty oath) rồi vào năm 1967, Tòa lại cải hồi một phán quyết của tiểu bang New York bắt buộc các giáo chức phải tuyên thệ không tham gia đảng Cộng Sản. Vụ án Denis v. United States năm 1951 đã bị Tòa Tối Cao bỏ phiếu 6-2 đồng ý với việc tuyên án. Đa số các vị quan tòa cho rằng mục tiêu xa của đảng Cộng Sản là làm thay đổi cấu trúc của chính quyền mặc dù họ không hô hào bạo động và việc biện hộ cho cách lật đổ chính quyền đã tạo ra một sự nguy hiểm rõ ràng và hiện tại. Thế nhưng, hai vị thẩm phán là William O. Douglas và Hugo Black đã không đồng ý với quan niệm kể trên và cho rằng quyết định của Tòa Án là một hình thức hiểm độc (a virulent form) về kiểm duyệt ngôn luận và báo chí, một đe dọa nghiêm trọng cho nền dân chủ hơn là các hành động của người Cộng Sản Mỹ. Vị chánh án Douglas biện luận rằng nơi nào người dân thực sự có được tự do thảo luận các ý tưởng (ideas) thì chế độ Cộng Sản không thể có được các người ủng hộ. 
Tới năm 1957, trong vụ án Yates v. United States, Tòa Tối Cao đã xét lại vấn đề mối nguy hiểm rõ ràng và hiện tại qua đó Oleta O’Connor Yates và vài đảng viên Cộng Sản bị truy tố vì đạo luật Smith. Khi cải hồi (reverse) sự kết án, Tòa Tối Cao đã phân biệt giữa ngôn ngữ trình bày một ý tưởng với ngôn ngữ xúi dục vi phạm luật lệ hay tạo ra bạo động và phán rằng tin tưởng hay thuyết giảng một ý tưởng, dù cho là một ý tưởng cách mạng, vẫn không phải là một trọng tội nhưng xúi dục những người khácphá luật sẽ là một tội đại hình. Như vậy hội viên của các tổ chức dù cho có thảo luận về các nguyên tắc lật đổ chính quyền vẫn được che chở bởi Tu Chính Án Thứ Nhất trong khi đó, tổ chức một cuộc cách mạng hay trù liệu một vụ đặt bom sẽ không được che chở. Vị chánh án Hugo Black cũng nói: Các nhà độc tài chắc hẳn phải đàn áp các động lực và niềm tin có vẻ như lật đổ các chế độ xấu xa của họ,  nhưng sự dẹp bỏ các động lực và niềm tin đó đối với tôi là trái nghịch với điều mà Hiến Pháp đã chủ trương. Tu Chính Án Thứ Nhất cung cấp một loại hệ thống an toàn để bảo vệ một chính quyền tự do. 
Trong thập niên 1950, phần lớn các vụ án về tự do ngôn luận liên quan tới các đảng viên cộng sản nhưng các tổ chức chính trị khác cũng bị phán xét về cách trắc nghiệm gọi là mối nguy hiểm rõ ràng và hiện tại. Vào năm 1969, ông Clarence Brandenburg, lãnh tụ của tổ chức Ku Klux Klan tại tiểu bang Ohio, tổ chức một cuộc tụ tập trên hè phố và đốt cây thánh giá để chứng tỏ sự khinh miệt các người da đen và Do Thái. Khi cảnh sát ra lệnh phải giải tán, ông Clarence đã không tuân lệnh nên bị bắt giữ. Trong vụ án Brandenburg v. Ohio -1969, Tòa Tối Cao đã tuyên bố rằng ông Clarence được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất bởi vì không thấy có dấu hiệu của mối nguy hiểm rõ ràng. Điều này có nghĩa là một diễn giả có thể hô hào bạo động, lời nói vẫn được bảo vệ theo Hiến Pháp cho đến khi nào cuộc bạo động thực sự xẩy ra. Ngày nay, khi truy tố một số người vì bày tỏ các ý tưởng, chính quyền phải chứng tỏ cho thấy lời hô hào trực tiếp dẫn tới cách bạo hành (violence) hay các tội ác khác (crimes). 
Tu Chính Án Thứ Nhất tuy bảo vệ quyền tự do ngôn luận nhưng không che chở việc dùng thứ tự do này để làm hại thanh danh của người khác, thường được gọi là gièm pha (defamation). Thí dụ về gièm pha là nói sai sự thật rằng ông giám đốc nọ ăn hối lộ, ông bác sĩ kia là một lang băm, ngân hàng nào đó đang phá sản… Cách gièm pha có thể dùng tới lời nói hay dùng chữ viết. Nếu dùng lời nói như trong một buổi thuyết giảng hay trên vô tuyến truyền thanh, thì cách bôi nhọ này được gọi là nói xấu(slender) còn cách bôi nhọ bằng báo chí, hình vẽ chế riễu, bích chương, phim chiếu bóng và truyền hình thì được gọi là phỉ báng (libel). Cả hai cách nói xấu và phỉ báng đều bị coi là bất hợp pháp vì đã làm tổn thương đến nghề nghiệp và đời sống của người khác. 
Mặt khác, việc chỉ trích các công viên chức (public officials) không bị coi thuộc vào tội gièm pha. Năm 1964, tờ báo New York Times có cho đăng một quảng cáo do một nhóm dân quyền trả tiền. Phần quảng cáo này nói rằng cảnh sát của khu vực Montgomery, Alabama, đã thi hành một loạt khủng bố (a wave of terror) đối với các sinh viên phản đối. Vị chỉ huy cảnh sát là ông L.B.Sullivan cho rằng tờ báo New York Times phỉ báng ông và các viên chức khác cũng kiện tờ báo này, đòi bồi thường tới 5 triệu Mỹ kim. Tòa án Alabama đã tuyên án ông Sullivan được bồi thường $500,000 . Khi tờ báo New York Times kháng cáo lên Tòa Tối Cao thì các vị thẩm phán của Tòa này đã đồng thanh bác bỏ việc bồi thường cho ông Sullivan. Tòa Tối Cao tuyên bố rằng chỉ trích các công viên chức cũng như chỉ trích chính quyền là quyền căn bảnđược Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ trừ khi có thực sự ác ý hay không đếm xỉa gì tới sự thật. 
Kể từ vụ kiện tờ báo New York Times, tòa án đã nói rằng các công viên chức, các nhân vật nổi tiếng (public figures) thí dụ như các lực sĩ nhà nghề hay các diễn viên sân khấu, là những người có nhiều cơ hội về truyền thông nên có thể chứng minh các lời tố cáo sai sự thực, vì vậy họ không được bảo vệ về các lời chỉ trích. 
Thông thường việc chỉ trích các nhân vật nổi tiếng được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ nhưng cũng có trường hợp việc phỉ báng của giới truyền thông bị lên án. Năm 1981, diễn viên Carol Burnett đã kiện tờ báo National Enquirer có số phát hành toàn quốc, về tội phỉ báng bởi vì vào năm 1976, tờ báo này đã cho phổ biến một câu chuyện sai sự thực, theo đó ông Burnett đã xỉ nhục (insult) Bộ Trưởng Ngoại Giao Henry Kissenger trong một nhà hàng tại Washington. Căn cứ vào vụ án của tờ New York Times, tòa án đã cho rằng bài báo của tờ Enquirer đã không đếm xỉa gì tới sự thật. 
Quyết định về vụ án Burnett này đã chứng tỏ báo chí đã lạm dụng quyền lực và vụ án kể trên đã làm nản lòng các nhà báo vô trách nhiệm, những người tạo ra các vụ tai tiếng giả tạo để bêu xấu những nhân vật nổi danh trong khi đó cũng có một số người e ngại rằng các vụ án về gièm pha kiện báo chí sẽ giới hạn sự tự do ngôn luận và tự do báo chí. 
Quyền tự quyết định là căn bản của tự do. Người dân phải có tự do theo đuổi các ý kiến riêng của họ và có quyền không đồng ý với chính quyền hay khối đa số. Việc đàn áp những người không gây ra các mối nguy hiểm, các đe dọa về trật tự xã hội, thường do sự sợ hãi (fear) và lòng bất dung thứ (intolerance), và cũng có khi do các nhà chính trị muốn nổi trội nên đã thao túng công luận, tạo dựng nên sự sợ hãi và thù ghét bằng cách lợi dụng lòng ái quốc. 
Ngày nay trên thực tế, vấn đề tự do cá nhân được cứu xét trên sự cân bằng giữa các quyền lợi của cá nhân và các quyền lợi của xã hội, và Tòa Án Tối Cao là cơ quan phán xét các lời cuối cùng về phương cách cân bằng căn cứ vào Hiến Pháp và Luật Dân Quyền.    
II. Tự Do Báo Chí Tại Hoa Kỳ
Giống như Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí là một trong các điều căn bản của nền Dân Chủ. Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ đã cấm đoán chính quyền không được phép tước bớt các tự do ngôn luận, tôn giáo, báo chí và hội họp. Bảo vệ nền tự do báo chí là bảo vệ quyền của người dân được hiểu biết và khuyến khích các cơ quan truyền thông báo cáo và thảo luận về các biến cố chính trị đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra. Nhờ tự do báo chí mà các ý tưởng có thể được in ấn, phổ biến và trao đổi, và chỉ bằng cách thảo luận cởi mở các ý tưởng mà sự thật mới được phát hiện. Nhà bình luận chính trị danh tiếng Walter Lippmann đã từng nói: Một nền tự do báo chí không phải là một đặc quyền (privilege) mà là một nhu cầu cơ hữu (an organic necessity) của một xã hội tốt đẹp. 
Tại Hoa Kỳ ngày nay, phần lớn các biến cố chính trị thường xẩy ra tại Thủ Đô Washington D.C. và các sự việc này đã được báo chí và truyền thanh, truyền hình tường thuật. Trước việc tường thuật các biến cố, nhiều người đã đặt câu hỏi, ai có quyền cho phép người dân được nghe những gì và đựơc đọc những gì? Chính quyền có nên kiểm duyệt các bài báo chứa đựng các tin tức gây nguy hiểm cho an toàn công cộng? Việc kiểm duyệt các tin tức, nếu có, khi nào bị coi là đi quá xa? Làm sao ngăn ngừa những tờ báo lợi dụng nền tự do báo chí để nói sai sự thực, làm hại những người lương thiện khác? 
Sự tự do của giới truyền thông hay tự do báo chí có liên hệ chặt chẽ với tự do ngôn luận. Tự do báo chí trước kia chỉ bao gồm các sách vở, nhật báo và tạp chí, nhưng ngày nay nền tự do đó còn được áp dụng vào truyền thanh, truyền hình và phim ảnh. Hai phương tiện truyền thanh và truyền hình thường bị chi phối bởi các quy luật của chính quyền bởi vì các làn sóng là một nguồn tài nguyên chung (a public resource) và các tần số phát thanh và phát hình có giới hạn và cũng vì thế, một số phạm vi truyền thông bị giới hạn hơn các thứ khác. 
1. Kiểm duyệt báo chí
Nhiều chính quyền trên thế giới hiện đang kiểm soát báo chí và các phương tiện truyền thông khác. Các chính quyền này có thể phá hủy các máy in, ngăn cản các bài tường thuật không cho phổ biến, đóng cửa các tòa báo thường chỉ trích chính phủ, không cho phát hành hay tịch thu các cuốn sách, đòi hỏi sự kiểm duyệt sách báo trước khi in ấn, cấm đoán trình chiếu các phim ảnh… Tại Hoa Kỳ, Tu Chính Án Thứ Nhất bảo đảm nền tự do báo chí và cấm đoán các hình thức kiểm duyệt của chính quyền. 
Các giới hạn của chính quyền về tự do ngôn luận và báo chí có thể biện hộ khi chính quyền kiểm duyệt cách phổ biến việc gây căm thù hay khi tin tức có chứa đựng bên trong các nguy hiểm cho nền an ninh chung. Việc kiểm duyệt báo chí được coi là cần thiết khi có sự loan tin thất thiệt, làm hại tới các người dân vô tội, nhưng cách kiểm duyệt các tin tức khi nào bị coi là đi quá xa? Vào năm 1931, khi tờ tuần báo Saturday Press ở Minneapolis thuộc tiểu bang Minnesota cho in một loạt bài tố cáo viên cảnh sát trưởng và một số viên chức địa phương tham nhũng và ăn bớt của công, gọi họ làbọn Do Thái ăn bớt (Jewish grafters) thì tòa án địa phương đã ban ra một lệnh tòa (injunction) đóng cửa tòa báo bởi vì từ thập niên 1920 tại Minnesota, đã có một đạo luật cấm xuất bản các tạp chí gây tai tiếng, phỉ báng và có ác ý. Trước vụ kiện Near v. Minnesota này, vị chánh án Tòa Tối Cao là ông Charles Evans Hughes đã xác nhận rằng dụng ý của đạo luật Minnesota là trấn áp các xuất bản tương lai hơn là trừng phạt các xuất bản đã qua. Đạo luật của tiểu bang và lệnh tòa như vậy là một sự việcvi hiếnvì giới hạn trước (prior restraint). 
Đối với việc kiểm duyệt của chính quyền trước khi một bài báo, một cuốn sách được xuất bản, ông William Blackstone, vị quan tòa và luật gia danh tiếng người Anh, đã từng viết: Tự do báo chí bao gồm cả việc không được giới hạn trước các phổ biến, và quan tòa Charles Evans Hughes phán quyết rằng duy trì đạo luật của tiểu bang Minnesota sẽ là một bước để tiến tới hệ thống hoàn toàn kiểm duyệt. Cách lý luận này tương tự như chủ thuyết về sự nguy hiểm rõ ràng và hiện tại (the clear and present danger doctrine) mà vị chánh án Holmes đã đề cập. Sau đó, Tòa Tối Cao cũng vô hiệu hóa các đạo luật tiểu bang đã cấm đoán việc phân phối các giấy quảng cáo và tập in mỏng (handbills and leaflets) mà không được phép của viên chức thành phố. Tuy nhiên, Tòa Tối Cao cũng cảnh cáo rằng việc giới hạn trước được cho phép khi liên quan tới nền an ninh quốc gia và sự bạo động trong nước. 
40 năm sau vụ án về báo chí kể trên, vấn đề tự do trong việc phổ biến và quyền lợi của chính quyền lại được mang ra thử thách. Vào năm 1971, ông Daniel Ellsberg, một nhà phân tích chính trị làm việc tại Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, đã vi phạm các quy luật về an ninh do cung cấp cho hai tờ báo New York Times và Washington Post các tài liệu nghiên cứu về cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Các tài liệu mật này là một phần thuộc báo cáo nhiều quyển của Bộ Quốc Phòng mô tả cuộc chiến và cho thấy rằng trong thập niên 1960, chính quyền Hoa Kỳ đã nói dối dân chúng về nhiều phương diện. Sau khi suy nghĩ, hai tờ báo New York Times và Washington Post bắt đầu cho tin các đoạn trích của công trình nghiên cứu. Ngay lập tức, Tổng Thống Richard Nixon đã xin một lệnh tòa ngăn chặn việc phổ biến kể trên vì cho rằng sự việc đó đã vi phạm vào Đạo Luật Do Thám của năm 1917 (the Espionage Act of 1917) khi đó còn hiệu lực. Vụ án New York Time và Washington Post kiện chính phủ Hoa Kỳ, hay còn được gọi là vụ án Tài Liệu Ngũ Giác Đài (the Pentagon Papers) được trình lên Tòa Án Tối Cao và các vị quan tòa đã bỏ phiếu 6 chống 3, xác nhận rằng chính quyền Hoa Kỳ đã không cung cấp đủ biện minh cho việc giới hạn trước, không chứng tỏ được rằng việc phổ biến các tài liệu đó sẽ gây ra các nguy hại trực tiếp và nghiêm trọng cho quốc gia. Sau đó, hai tờ báo kể trên tiếp tục cho in Tài Liệu Ngũ Giác Đài
Trước quyền tự do báo chí, thẩm phán Hugo Black là vị quan tòa không nhân nhượng, đã nói:Qua Tu Chính Án Thứ Nhất, các vị lập quốc đã cho quyền tự do báo chí sự che chở cần thiết để hoàn thành vai trò quan trọng trong nền dân chủ của chúng ta. Báo chí dùng để phục vụ những người bị cai trị, không phải những nhà cai trị (the press was to serve the governed, not the governors). 
2. Kiểm duyệt sự thô tục 
Một thứ phổ biến không được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ, đó là sự thô tục(obscenity) bao gồm bên trong là loại dâm thư (pornography). Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra, đó là làm sao xác định được sự thô tục? Các lời chửi bới có phải là thô tục không? Loại phim X có thô tục không? 
Nhiều người cho rằng cần phải kiểm soát việc xuất bản các ấn phẩm nói về dục tình và các tòa án cũng canh chừng các cuốn sách khiêu dâm, các cuốn phim trình chiếu các cảnh đồi trụy. Khi không có các tiêu chuẩn để xét đoán, các nhân viên chính quyền có thể nới rộng ý nghĩa về thô tục để cấm đoán các tài liệu mà họ không ưa. 
Trong nhiều vụ kiện, Tòa Án Tối Cao đã cố gắng làm rõ danh từ thô tục. Nhân vụ án Miller kiện California vào năm 1973, Tòa Tối Cao đã đặt ra ba tiêu chuẩn để cứu xét một sản phẩm bị coi là thô tục: (1) một người bình thường, áp dụng các tiêu chuẩn hiện thời của cộng đồng, sẽ cảm thấy một cách tổng quát sản phẩm đó khêu gợi về dâm tính, (2) sản phẩm mô tả hành vi dâm dục mà luật pháp địa phương hay các tòa án coi là xúc phạm, (3) sản phẩm, xét theo tổng quát, thiếu đi các giá trị đứng đắn về mặt văn chương, nghệ thuật, chính trị hay khoa học. Ngoài ra, còn có lời bình luận nổi tiếng của vị chánh án Potter Stewart như sau: Tôi không biết phải định nghĩa sự thô tục như thế nào, nhưng tôi biết một sản phẩm là thô tục khi nhìn thấy rõ ràng. 
Tại Tòa Án Tối Cao, ngoài hai vị chánh án Black và Douglas, hầu như tất cả các vị khác đều coicác tài liệu thô tục không thuộc về ngôn luận (speech) hay báo chí (press) là những từ được dùng trong Tu Chính Án Thứ Nhất, vì vậy không được bảo vệ và có thể bị kiểm duyệt. 
Kể từ vụ án Miller v. California, các nhà làm luật, các tòa án và bồi thẩm đoàn địa phương đã dùng các tiêu chuẩn cứu xét theo sự xét đoán khác nhau tùy theo cộng đồng, tùy theo địa phương. Do các tiêu chuẩn địa phương được dùng tới nên kỹ nghệ khai thác tình dục đã phát triển tại vài nơi. Trên con đường thứ 42 của thành phố New York, người dân có thể nhìn thấy đủ loại dâm thư trong khi tại một số thị trấn khác, tất cả các sách báo và phim ảnh có một chút tình dục đều bị cấm đoán, vì vậy vào năm 1987, Tòa Tối Cao đã sửa đổi các tiêu chuẩn xét đoán về sự thô tục. Qua vụ án Pope v. Illinois, Tòa Tối Cao xác định rằng các tòa án không được dùng các tiêu chuẩn địa phương. Vị chánh án Byron White nói rằng giá trị của một sản phẩm không thể thay đổi từ cộng đồng này sang cộng đồng khác căn cứ vào sự chấp nhận địa phương và vấn đề chính là giá trị phải do một người hiểu biết đánh giá một cách toàn diện. 
Như vậy các tiêu chuẩn cứu xét về sự thô tục luôn luôn phải do Tòa Án Tối Cao thẩm định và cho lời phán quyết cuối cùng. Tòa cũng tuyên bố vào năm 1969 rằng các người bán sách không bị trừng phạt vì bán ra các tài liệu thô tục trừ khi chính họ biết rõ điều đó. Tòa còn quy định rằng các chính quyền tiểu bang và địa phương không có quyền ngăn cản các công dân dùng các tài liệu thô tục một cách riêng tư nhưng các chính quyền này có thể cấm những người dưới 18 tuổi vào các hiệu sách dành chongười lớn hay vào các rạp hát chiếu các loại phim cấm trẻ em. Quốc Hội cũng thông qua các đạo luật ngăn trở việc mua và bán loại dâm thư, chẳng hạn các tài liệu thô tục không thể gửi bằng bưu điện. 
Một vấn đề khác là tiểu bang New York phê chuẩn một đạo luật trừng phạt việc phân phối các tài liệu mô tả tình dục của trẻ em dưới 16 tuổi. Mặc dù xét theo một vài tiêu chuẩn, các tài liệu này không bị coi là thô tục nhưng Tòa Án Tối Cao cũng cho phép tiểu bang New York truy tố những người buôn bán thứ đó dù cho kẻ bán không trực tiếp tham gia vào việc khai thác tình dục của trẻ em (vụ án New York v. Ferber, 458 U.S.7471982). Tòa Tối Cao cũng cho phép các thành phố dùng tới phương thức chia vùng (zoning procedures) để loại đi các rạp chiếu phim dơ bẩn và đóng cửa các hiệu sách người lớn nếu những nơi này là chỗ trá hình của mãi dâm. 
3. Giới hạn việc quảng cáo 
Theo luật pháp, việc quảng cáo (advertising) được gọi là ngôn ngữ thương mại(commercial speech), không được Tu Chính Án Thứ Nhất che chở. Vì phải bảo vệ các người tiêu thụ, chính quyền đã kiểm soát một phần nào công việc quảng cáo. Năm 1914, Quốc Hội đã lập ra Ủy Ban Mậu Dịch Liên Bang FTC (Federal Trade Commission) có trách nhiệm theo dõi nội dung của công việc quảng cáo và cố làm cho tài liệu quảng cáo chứa đựng nhiều chi tiết xác thực hơn. Thí dụ về công việc này là vào năm 1971, các quảng cáo thuốc lá bị cấm phổ biến trên truyền thanh và truyền hinh còn trên các ấn phẩm, các hãng thuốc lá phải liệt kê rõ ràng thành phần chất nhựa và chất nicotine. Các loại quảng cáo lừa dối cũng bị ngăn chặn. 
Trong nhiều năm, đã có các đạo luật và quy luật tiểu bang ngăn cấm một số loại quảng cáo rồi tới giữa thập niên 1970, các tòa án và Ủy Ban FTC đã nới lỏng sự kiểm soát. Thí dụ vào năm 1977, Tòa Tối Cao đã bác bỏ một đạo luật cấm các luật sư quảng cáo về các dịch vụ và lệ phí (vụ án Bates v. Arizona Bar Association). Các quảng cáo về thuốc ngừa thai, các dịch vụ y tế cũng không còn bị cấm đoán như trước kia. 
4. Phim ảnh, truyền thanh và truyền hình 
Phim ảnh, truyền thanh và truyền hình cùng với báo chí được gọi là các phương tiện truyền thông đại chúng (mass media), là các nguồn tin tức, gây ảnh hưởng tới đông đảo quần chúng. Qua nhiều thế kỷ, các phương tiện này đã đổi mới, phát triển, nên đã gây ra rất nhiều vấn đề mới và phức tạp. 
Vào năm 1915, khi kỹ nghệ phim ảnh còn sơ khai, trong vụ án Mutual Film Corporation kiện Ohio, tòa án đã quy định rằng các thẩm quyền tiểu bang và địa phương có hoàn toàn tự do kiểm duyệt các phim chiếu bởi vì phim ảnh không được coi là một phần của báo chí (the press) hay là cơ quan của công luận (an organ of public opinion). Kết quả của quyết định này là đã xuất hiện hàng trăm ủy ban kiểm duyệt cấp địa phương và cấp tiểu bang trên toàn quốc Hoa Kỳ, và các ủy ban này có quyền cấm cản các phim ảnh trình chiếu trong khu vực quản trị. 
Thời gian trôi qua, việc duyệt xét kỹ nghệ điện ảnh cũng thay đổi. Vào năm 1952, Hội Đồng Quản Trị của tiểu bang New York (Board of Regents) đã không cho phép chiếu cuốn phim Ý có tên là Điều Huyền Diệu (the Miracle) vì họ cho rằng cuốn phim này mang tính xúc phạm(sacrilegious). Qua vụ án Burstyn v. Wilson, Tòa Tối Cao phán quyết rằng phim ảnh được che chở một phần bởi Tu Chính Án Thứ Nhất và việc kiểm duyệt trước cuốn phim của tiểu bang New York được coi là vi hiến bởi vì định nghĩa của luật pháp về chữ xúc phạm quá mơ hồ. Tòa Tối Cao đòi hỏi các luật lệ kiểm duyệt phim ảnh phải xác định rõ ràng các tiêu chuẩn và áp dụng các tiêu chuẩn này một cách công bằng. Kể từ khi đó, rất khó cho các ủy ban kiểm duyệt cấm đoán các phim ảnh và ngày nay chỉ còn một số ít loại ủy ban này tại vài tiểu bang và địa phương. Việc kiểm duyệt thường được căn cứ vào sự thô tục. 
Đối với kỹ nghệ điện ảnh, họ cũng tìm cách tránh bớt sự can thiệp của chính quyền bằng hệ thống phân loại: loại G = dùng cho khán giả thông thường, loại PG = cần sự hướng dẫn của cha mẹ, loại PG-13 = cần sự hướng dẫn của cha mẹ dành cho các trẻ em dưới 13 tuổi, loại R = giới hạn (Restricted) và loại NC = cấm trẻ em dưới 17 tuổi. 
Các giới hạn còn được áp dụng vào truyền thanh và truyền hình. Giống như báo chí, các phương tiện truyền thông này là các diễn đàn quan trọng về tin tức và tranh luận, đề cập tới các vấn đề công cộng. Bởi vì truyền thanh và truyền hình hoạt động trên các làn sóng công cộng, nếu có quá nhiều đài phát thanh và phát hình, sẽ xẩy ra các rối loạn hay trùng chéo, vì vậy chính quyền liên bang đã cho phép mỗi đài phát sóng một tần số nhất định. Cơ quan chịu trách nhiệm điều hành việc phát sóng là Ủy Ban Truyền Thông Liên Bang FCC (Federal Communications Commission) và mặc dù ủy ban FCC không kiểm duyệt nội dung việc thông tin hay can thiệp vào vấn đề tự do ngôn luận, nhưng ủy ban này đã đặt ra các tiêu chuẩn để cấp giấy phép hoạt động và đòi hỏi các đài phát sóng phải tôn trọng các tiêu chuẩn đó. Các giấy phép này có giá trị trong ba năm, sau đó phải xin tái cấp. Một điều lệ quan trọng của ủy ban FCC là chủ thuyết công bằng (fairness doctrine) theo đó, khi có một vấn đề quan trọng cần được đề cập thì các đài phát thanh và phát hình phải trình bày mọi mặt của vấn đề. Tuy nhiên chủ thuyết kể trên đã bị kháng cáo vào năm 1987 vì có ý kiến cho rằng quyền lợi theo Tu Chính Án Thứ Nhất của những cơ quan phát sóng đã bị vi phạm. 
Quyền tự do báo chí còn có một yếu tố quan trọng là dân chúng có quyền biết rõ chính quyền đang làm gì. Vì vậy vào năm 1966, Quốc Hội đã thông qua Đạo Luật Tự Do về Tin Tức (the Freedom of Information Act). Tới năm 1974, đạo luật kể trên lại được tu chính theo đó chính quyền phải để cho các nhà báo và các công dân quan tâm xem xét các hồ sơ liên bang (federal records) như các tài liệu về ngân khoản, các hình ảnh và bản đồ, ngoại trừ các tài liệu được ghi rõ làmật (classified). 
Chính quyền liên bang và nhiều tiểu bang còn chấp nhận các luật ánh sáng mặt trời(sunshine laws) theo đó, các cơ quan của chính phủ phải tổ chức các buổi họp công cộng và phải thông báo trước một tuần lễ về các buổi mít tinh này. Đạo luật ánh sáng mặt trời năm 1976 đòi hỏi gần 50 cơ quan liên bang, các ủy ban và hội đồng phải công bố các hoạt động của họ. Nếu các buổi họp bàn về đường lối hoạt động của chính quyền được thực hiện trong phòng kín thi công chúng có quyền đọc các bản tường thuật viết của các buổi họp đó. 
Trong lịch sử của Hoa Kỳ, việc bảo vệ các tự do dân sự (civil liberties) luôn luôn được theo đuổi và vấn đề tranh luận được nêu ra là việc Kiểm Duyệt đối với sự Tự Do. Dân chúng Hoa Kỳ thường có khuynh hướng chống lại sự bất dung thứ (intolerance), họ không muốn bị sai bảo phải làm gì và đứng trước các vấn đề trọng đại, người dân đôi khi ưa thích Tự Do hơn là Luân Lý. 
III. Tự do tôn giáo tại hoa kỳ
Tự do cá nhân là một nguyên tắc rất quan trọng trong nền Dân Chủ của Hoa Kỳ.Tự do cá nhân được Tu Chính Án Thứ Nhất thuộc Hiến Pháp Hoa Kỳ bảo vệ, bao gồm các tự do về tôn giáo, ngôn luận, báo chí và hội họp. Vị Chánh Án Robert H. Jackson, trong vụ án Bộ Giáo Dục Tiểu Bang West Virginia v. Barnette, đã nói: Nếu có các vì sao trong chùm sao Hiến Pháp, đó là không một viên chức nào, dù lớn hay nhỏ, có quyền ra lệnh một thứ gì là chính thống (orthodox) về chính trị, quốc gia, tôn giáo hay ý kiến. Thế nhưng trong thực tế, thường có các câu hỏi thế nào là tự do. Tự do ngôn luận có cho phép người dân muốn nói gì thì nói hay không? Tự do tôn giáo có phải là người dân không cần tôn trọng luật pháp vì các niềm tin tôn giáo? 
Một chính quyền dân chủ phải đối đầu với việc cân bằng giữa các tự do của người dân và các thẩm quyền của chính quyền, và chính quyền phải bảo vệ người dân có quyền suy nghĩ và nói ra theo niềm tin của họ.
1. Tự Do Tôn Giáo
Tự do tôn giáo được coi là quan trọng kể từ thời thuộc địa Bắc Mỹ. Các người dân thuộc địa Tân Anh Cát Lợi đã bỏ nước Anh, vượt qua Đại Tây Dương để tránh các đàn áp tôn giáo vào đầu thế kỷ 17. Thế nhưng trong khi các người định cư ban đầu đã tránh khỏi những điều bắt buộc của Nhà Thờ Anh Cát Lợi, thì chính họ lại không dung thứ các niềm tin khác lạ của những người không giống họ. Mỗi xứ thuộc địa trên miền Bắc Mỹ đã có các nhà thờ chính thức và chỉ có các hội viên của nhà thờ mới có quyền đi bầu. Đã có các người khác tôn giáo không được niềm nở đón tiếp tại một số tiểu bang. Các miền đất Rhode Island, Maryland và Pennsylvania là nơi phát triển của các tôn giáo như Công Giáo La Mã, Tin Lành, Do Thái, Quakers… Ít tôn giáo có lòng dung thứ.
Tinh thần dung thứ (toleration) đã phát triển dần dần trong thế kỷ 19 nhưng vào thời lập quốc của Hoa Kỳ, Tiểu Bang Virginia đã viết ra Bản Tuyên Ngôn Các Quyền Lợi (a Declaration of Rights) trong đó bao gồm sự tự do tôn giáo. Thời đó đã có các tranh luận giữa các nhà lãnh đạo của xứ Virginia, với các ông George Washington và Patrick Henry theo chủ trương cần phải có một thứ thuế yểm trợ cho nhà thờ Thiên Chúa của tiểu bang, trong khi các ông Thomas Jefferson và James Madison lại tin tưởng rằng chính quyền không được liên hệ tới các vấn đề tôn giáo. Từ tư tưởng này, cơ quan lập pháp tiểu bang Virginia đã thông qua một đạo luật năm 1786 có tên là Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo (the Statute of Religious Liberty) qua đó cấm đoán các ảnh hưởng của chính quyền tác dụng vào các niềm tin cá nhân. Đây là mộtvết son trong Lịch Sử Tự Do và ông Thomas Jefferson coi văn bản kể trên là đóng góp thứ hai của ông vào nền chính trị của Hoa Kỳ.
Nguyên tắc về cách dung thứ của các tôn giáo từ tiểu bang Virginia đã lan qua các tiểu bang khác và đã ảnh hưởng tới các nhà lập quốc Hoa Kỳ khi họ viết ra Bản Hiến Pháp và cũng vì thế, Hiến Pháp Hoa Kỳ đã gồm câu văn: không một trắc nghiệm nào bị đòi hỏi trong việc hợp lệ vào một văn phòng hay một chức vụ công tại Hoa Kỳ. Điều này có nghĩa là không một chức vụ nào của chính quyền Hoa Kỳ được dành cho các hội viên của một tôn giáo đặc biệt. Tuy nhiên, cách giới hạn này vẫn khiến cho nhiều người Mỹ vào thời thuộc địa e ngại rằng chính quyền mới sẽ thiết lập nên một loại nhà thờ chính thức của quốc gia để rồi giới hạn các tự do tôn giáo. Cho nên vào năm 1791, khi Bản Dân Quyền (the Bill of Rights) được thêm vào Hiến Pháp Hoa Kỳ, thì Tu Chính Án Thứ Nhất đã được bắt đầu bằng câu văn: Quốc Hội không được làm luật cho phép thiết lập một tôn giáo hay cấm đoán việc thực hành tự do về niềm tin. Như vậy trong Tu Chính Án Thứ Nhất (the First Amendment) có hai điều khoản: điều khoản căn bản (the establishment clause) và điều khoản thực hành tự do (the free exercise clause).
2. Điều khoản căn bản
Tu Chính Án Thứ Nhất đã cấm đoán chính quyền Hoa Kỳ không được làm ra luật lệ nào để thiết lập nên một tôn giáo chính thức. Vai trò của chính quyền đối với tôn giáo đã được Tòa Án Tối Cao theo dõi và trong vụ án Everson kiện Bộ Giáo Dục (Everson v. Board of Education), vị thẩm phán Hugo Black đã nói về định nghĩa của Điều Khoản Căn Bản vào năm 1947, như sau: không một chính quyền tiểu bang hay liên bang có quyền thiết lập ra một thứ nhà thờ (church). Không chính quyền nào có quyền thông qua các luật lệ giúp đỡ một tôn giáo, các tôn giáo, hay yểm trợ một tôn giáo này hơn tôn giáo kia. Không chính quyền nào có thể bắt buộc một cá nhân phải đi nhà thờ hay xa lánh một nhà thờ ngoài ý muốn của người đó, hay bắt buộc người đó phải tin tưởng hay không tin tưởng vào một tôn giáo nào. Ngoài ra, vị thẩm phán Black còn nói rõ rằng chính quyền không được tham gia vào công việc của các nhóm tôn giáo hay đánh thuế để yểm trợ tôn giáo. Dẫn chứng bằng lời nói của ông Thomas Jefferson, thẩm phán Black đã minh xác rằng mục đích của điều khoản căn bản là tạo ra một bức tường phân cách Nhà Thờ và Quốc Gia (a wall of separation between church and state).
Măc dù theo nguyên tắc đã có một bức tường phân cách nhà thờ và quốc gia, ngăn chia tôn giáo và chính quyền nhưng trên thực tế, trong đời sống và văn hóa Hoa Kỳ, vẫn còn ảnh hưởng của niềm tin và các giá trị cổ truyền của loại truyền thống Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo (Judeo-Christian tradition). Kể từ năm 1865, trên các đồng tiền của Hoa Kỳ có khắc hàng chữ Chúng tôi tin tưởng vào Thượng Đế (In God We Trust) và trong câu tuyên thệ trung thành (the Pledge of Allegiance) vẫn có câu một quốc giatin vào Thượng Đế  (one nation, under God). Vào đầu các buổi họp của Quốc Hội và các viện tiểu bang, vẫn có phần cầu nguyện do vị mục sư hay tuyên úy điều khiển. Tòa Án Tối Cao khi bắt đầu một buổi họp, đã dùng câuCầu xin Thượng Đế giúp đỡ Hoa Kỳ và Tòa Án Danh Dự này. Và kể từ năm 1952, mỗi Tổng Thống đều ban hành một ngày cầu nguyện (a National Day of Prayer).
Các thực hành nghi lễ mang tính tôn giáo kể trên có vi phạm vào điều khoản căn bản không? Câu hỏi này đã được đề cập tại Tòa Án Tối Cao vào năm 1983 trong vụ án Marsh v. Chambers, hay vụ kiện cơ quan lập pháp tiểu bang Nebraska có quyền hợp pháp dùng tuyên úy (chaplain) hay không. Tòa Tối Cao cho rằng tập quán bắt đầu một buổi họp bằng lời cầu nguyện đã trở nên một phần của cơ cấu của xã hội chúng ta (a part of the fabric of our society) và vị Chánh Án Tòa Tối Cao là ông Warren Burger đã nói rằng việc thực hành cầu nguyện kể trên chỉ là cách công nhận các niềm tin của nhiều người trong quốc gia này.
Trong vụ án Cantwell v. Connecticut, Tòa Án Tối Cao quy định rằng các chính quyền tiểu bang không được xâm phạm hay cấm cản các biểu lộ niềm tin tôn giáo nào không gây ra nguy hiểm cho xã hội. Tòa Tối Cao như vậy đã ủng hộ sự tự do hoàn toàn về niềm tin và coi tôn giáo là các niềm tin hay triết lý sống. Tòa Tối Cao cũngkhông quyết định tôn giáo nào đáng được sự bảo vệ của Tu Chính Án Thứ Nhất và như vậy, luật lệ nào đặt một tôn giáo ra ngoài vòng pháp luật, đều bị coi là vi hiến, dù cho tôn giáo đó có suy tôn Quỷ Sa Tăng hay nhà độc tài Adolph Hitler, nhưng đồng thời, các tội ác (crimes) không thể lấy lý do tôn giáo để biện hộ.
Đối với Lời Thề Trung Thành, Tòa Tối Cao năm 1943 cũng bác bỏ các luật lệ tiểu bang đòi hỏi người công dân phải đọc lời thề kể trên và vào năm 1961, trong vụ án Torcaso v. Watkins, Tòa Tối Cao phủ nhận đạo luật của tiểu bang Maryland bắt buộc các nhân viên của tiểu bang này phải tuyên thệ niềm tin nơi Thượng Đế. Về việc kiện chính quyền yểm trợ tôn giáo, đã xẩy ra tại Pawtucket thuộc tiểu bang Rhode Island. Trong 40 năm, các nhân viên của thị xã Pawtucket đã dựng nên cảnh trí Chúa Giáng Sinh với cây thông và ông già Santa Claus ngồi trên xe do các con hươu kéo, tại khu thương mại trung tâm thị xã. Một số cư dân của địa phương này đã kiện chính quyền yểm trợ tôn giáo. Tòa Án Tối Cao sau đó đã phán quyết rằng việc trưng bày cảnh trí Giáng Sinh đã không làm lợi trực tiếp cho một tôn giáo nào và ông già Santa Claus và các con hươu không là các biểu tượng tôn giáo (symbols), cho nên cảnh trí kể trên chỉ là kỷ niệm của một ngày lễ quốc gia.
Một vấn đề khác là chính quyền Hoa Kỳ từ cấp liên bang xuống địa phương đã miễn thuế cho các nhà thờ, họ đã không đánh thuế vào các tài sản do nhà thờ dùng vào mục đích tôn giáo trong khi đó các tài sản của nhà thờ dùng vào các hoạt động thương mại hay sinh lời vẫn bị đánh thuế. Chính sách này được căn cứ vào niềm tin theo đó, đánh thuế vào nhà thờ là đe dọa các tự do tôn giáo vì theo vị chánh án John Marshall quyền lực về đánh thuế liên quan tới quyền lực về phá hủy (the power to tax involves the power to destroy). Tuy nhiên, một số người vẫn cho rằng do miễn thuế, chính quyền đã nâng dỡ tôn giáo.
Năm 1970 trong vụ án Frederick Walz kiện Sở Thuế của thành phố New York, ông Walz đã cho rằng đạo luật miễn các thuế tài sản địa phương (local property taxes) dành cho nhà thờ không những đã làm gia tăng thuế tài sản của các người dân như ông ta, mà còn cho thấy sự yểm trợ công dành cho tôn giáo. Tòa Tối Cao sau đó đã tuyên phán rằng việc miễn thuế như vậy không có chủ đích yểm trợ tôn giáo mà chỉ cho thấy chính sách trung lập từ thiện của chính quyền (benevolent neutrality) và như vậy, các việc miễn thuế không vi phạm điều khoản căn bản của Tu Chính Án Thứ Nhất.
Việc miễn thuế cho các tài sản tôn giáo địa phương cũng đã làm gia tăng phần đóng thuế của các cộng đồng nhỏ, thí dụ như vụ thuế tài sản của cộng đồng Hardenburg, trong miền núi Catskill thuộc tiểu bang New York. Do là nơi an lành của các tổ chức tôn giáo và các tổ chức từ thiện bất vụ lợi, hàng ngàn mẫu đất đã không phải nộp thuế, ngoài ra nhà thờ Các Nhân Chứng của Jehovah (Jehovah’s Witnesses) đang sở hữu 8,000 acres (1 acre = 4,047 mét vuông), nhóm Phật Giáo Thiền Tông (Zen Buddhists) mua được 1,000 acres và nhóm các nhà sư Tây Tạng Dungkar Gompar cũng có 780 acres đất. Việc miễn đóng thuế sở hữu (property tax) tại thị trấn Hardenburg đã làm cho thuế của người dân địa phương tăng lên gấp ba lần trong các năm từ 1971 tới 1976. Do giận dữ vì tăng thuế, 213 cư dân của Hardenburg trong tổng số 236 người đã trở thành tu sĩ đã thọ giới  (ordained ministers) của Nhà Thờ Đời Sống Toàn Cầu (the Universal Life Church), một tổ chức tôn giáo qua thư từ (mail-order religious organization). Lập luận là các tu sĩ, những người dân này tuyên bố rằng đất nhà, đất vườn, đất ruộng của họ là tài sản của nhà thờ và vì vậy được miễn thuế. Tiểu bang New York vì thế đã kiện họ ra tòa và Tòa Án đã phán xét rằng các cư dân của Hardenburg đã quan tâm nhiều về cách trốn thuế hơn là thực hành tôn giáo, rồi vào năm 1984, cơ quan thuế vụ IRS cũng tuyên bố rằng Nhà Thờ Đời Sống Toàn Cầu không được công nhận là một tổ chức tôn giáo nếu xét về phạm vi thuế vụ.
 3. Tôn giáo và trường học
Phần lớn các tranh luận về điều khoản căn bản liên quan tới vấn đề tôn giáo và trường học, công cũng như tư. Có nhiều câu hỏi đã được đặt ra, chẳng hạn như chính quyền có thể dùng tiền thuế để giúp đỡ các trường tư tôn giáo không? Các khóa học tôn giáo, việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh có được cho phép tại các trường học do tiểu bang yểm trợ không? Bức tường ngăn cách nhà thờ và trường học được đặt tại chỗ nào?
a) Việc trợ giúp của chính quyền dành cho các trường tôn giáo
Theo một đạo luật của New Jersey, tiểu bang hoàn lại tiền xe buýt cho học sinh các trường tôn giáo. Các người chịu thuế đã phản đối sự việc kể trên vào năm 1947, cho rằng chính quyền đã giúp đỡ tôn giáo nhưng Tòa Tối Cao đã ủng hộ đạo luật tiểu bang. Tòa lý luận rằng mục đích chính của đạo luật là bảo đảm sự an toàn của các trẻ em, hơn là trợ giúp tôn giáo. Cách lý luận này được ghi nhận là lý thuyết vì lợi ích của trẻ em (child benefit theory). Về sau, vào năm 1971 trong vụ án Lemon v. Kurtzman, Tòa Tối Cao đã đặt ra các tiêu chuẩn căn cứ vào đó, chính quyền có thể giúp đỡ các trường học thuộc hệ thống tôn giáo mà không vi phạm điều khoản căn bản. Sự giúp đỡ này phải không làm lợi mà cũng không làm hại tôn giáo và chính quyền phải tránh quá vướng mắc vào tôn giáo. Tòa Tối Cao cũng không cho phép các tiểu bang trả lương cho các thầy cô giáo của các trường học thuộc tôn giáo vì như vậy là quá vướng mắc.
Từ các tiêu chuẩn đặt ra, tiền thuế có thể được dùng tại các trường tôn giáo để giúp trẻ em có bữa ăn trưa miễn phí, giúp về dịch vụ y tế và các sách giáo khoa (không phải là các sách dạy giáo lý). Mặt khác, các trường công lập không được phép cho các trường thuộc hệ thống tôn giáo mượn các trợ huấn cụ như máy hát, máy chiếu hình, bản đồ…vì những dụng cụ này có thể được dùng để giảng dạy tôn giáo.
b) Việc giảng dạy tôn giáo trong các trường công lập
Trong rất nhiều năm và tại nhiều nơi, đã có các chương trình giảng dạy tôn giáo tại các trường công lập. Trong một ngày đi học, các học sinh ngoài các giờ học chính thức, còn được giảng dạy về tôn giáo theo các đạo Tin Lành, Công Giáo La Mã hay Do Thái Giáo. Sự việc này đã được nêu lên vào cuối thập niên 1940 tại Champaign, tiểu bang Illinois. Trong vụ án McCollum kiện Bộ Giáo Dục (1948), Tòa Tối Cao đã tuyên phán rằng việc giảng dạy tôn giáo trên phần đất của trường công lập là vi phạm điều căn bản (the establishment clause). Vị quan tòa Black đã tuyên bố rằng chương trình giáo dục như vậy chắc chắn là đã dùng hệ thống giáo dục công lập có thuế yểm trợ để giúp đỡ các nhóm tôn giáo phổ biến niềm tin của họ. Quyết định về vụ án McCollum đã gây chấn động tới nhiều cộng đồng có các chương trình tương tự. Năm 1952 trong vụ án Zorach v. Clauson, tòa án đã phán quyết rằng chương trình học tôn giáo tại tiểu bang New York được thực hiện bên ngoài phần đất của trường công lập vì vậy không liên hệ tới lớp học công hay việc dùng công quỹ. Trong các năm về sau, Tòa Án đã dành vài ngoại lệ cho các hoạt động tôn giáo trên phần đất của các trường công lập và năm 1984, Quốc Hội đã thông qua một đạo luật cho phép các nhóm tôn giáo được quyền hội họp tại trường tiểu học và trung học vào ngoài giờ đi học. 
Một vấn đề quan trọng khác là việc cầu nguyện trong học đường. Trong nhiều thập niên, trẻ em tại các trường công lập của Hoa Kỳ thường bắt đầu một ngày học hành bằng lời cầu nguyện. Tại tiểu bang New York, Hội Đồng Giáo Dục (the Board of Regents) đã viết sẵn lời cầu xin cho học sinh như sau: Thượng Đế là Đấng Toàn Năng, chúng con biết rõ chúng con lệ thuộc vào Ngài, và chúng con xin Ngài ban phước lành cho chúng con, cho cha mẹ chúng con, cho các thầy cô giáo và đất nước của chúng con. Sự việc này đã khiến cho phụ huynh của 10 trường công lập tại New Hyde Park, N.Y., phản đối lời cầu nguyện do Hội Đồng Giáo Dục thảo ra và trong vụ án Engel v. Vitale (1962), các cha mẹ học sinh viện lý rằng việc cầu nguyện kể trên đã vi phạm điều khoản căn bản (the establishment clause). Khi xét xử vụ này, đa số các vị thẩm phán Tòa Tối Cao đã đồng ý và quan tòa Black đã nói: chúng tôi cho rằng trong việc dùng hệ thống trường công lập để khuyến khích đọc lời cầu nguyện của Hội Đồng Giáo Dục, tiểu bang New York đã dùng cách thực hành không thích hợp với điều khoản căn bản… Chúng tôi cho rằng trên đất nước này, không một cơ quan nào của chính quyên có quyền soạn ra các lời cầu nguyện chính thức cho một nhóm người Mỹ phải đọc…. Đây là quyết định đầu tiên trong một loạt các quyết định về tôn giáo đối với các đạo luật tiểu bang liên quan tới vấn đề giáo dục mà đã gây nên các phản đối và chỉ trích. 
Năm 1963, Tòa Án Tối Cao đã cấm việc đọc Thánh Kinh trong các trường công lập sau 2 vụ án tương tự: Học Khu Abington kiện Schempp và Murray kiện Curlett. Trong vụ án Abington, các người Schempps theo đạo Nhất Thể (Unitarians) đã phản đối một số câu văn trong Thánh Kinh nên tiểu bang Pennsylvania đòi hỏi rằng tối thiểu 10 câu Thánh Kinh phải được đọc mà không bình luận, vào lúc bắt đầu mỗi ngày học, còn trong vụ án thứ hai, các người Murrays thuộc nhóm vô thần (atheists) đã chống lại đạo luật của miền Baltimore bắt nghe Thánh Kinh mà không cho bình luận. Đối với cả hai trường hợp, Tòa Tối Cao đã phán xét rằng việc đọc Thánh Kinh trong các trường công lập là vi phạm điều khoản căn bản ngay cả nếu có một số học sinh được miễn đọc. Tòa Tối Cao một lần nữa nhấn mạnh rằng chính quyền phải đứng trung lập, không ủng hộ mà cũng không phản đối tôn giáo. Các học sinh có thể học Thánh Kinh như một môn học thuộc về Văn Chương hay Lịch Sử nhưng không thể dùng Thánh Kinh làm một hình thức thờ phượng. 
Năm 1968, Tòa Tối Cao cũng bác bỏ một đạo luật của tiểu bang Arkansas cấm các trường công lập không được giảng dạy thuyết Tiến Hóa (evolution), mà chỉ được đề cập tới lý thuyết tạo dựng nên trời đất của Thánh Kinh. Tòa Tối Cao phán rằng đạo luật kể trên không mang tính trung lập về tôn giáo. Năm 1985, Tòa Tối Cao cũng vô hiệu hóa một đạo luật của tiểu bang Alabama cho phép các thầy cô giáo bắt học sinh giữ một lúc cầu nguyện trong yên lặng, vào lúc ban đầu của mỗi ngày (vụ án Wallace v. Jaffree). Quyết định này đã ảnh hưởng tới các luật lệ tương tự của 23 tiểu bang. 
Tòa Án Tối Cao trước sau vẫn phán quyết rằng việc cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và giảng dạy một phần tôn giáo dù dưới hình thức nào đều vi phạm điều khoản căn bản, theo như Hiến Pháp quy định, dù vậy, vẫn có một số nhóm các nhà hoạt động tôn giáo vận động cho một thứ tu chính án cho phép việc cầu nguyện tự ý (voluntary prayers) trong các trường công lập. Vào cuối thập niên 1980, công cuộc vận động kể trên đã không hội đủ 2 phần 3 chấp thuận trong Quốc Hội và vấn đề tôn giáo trong trường học vẫn tiếp tục là đề tài tranh cãi. 

4. Điều khoản thực hành tự do 
Trong khi điều khoản căn bản cấm đoán chính quyền không được phép yểm trợ cho tôn giáo thì điều khoản thực hành tự do (the free exercise clause) ngăn ngừa chính quyền giới hạn việc thi hành tôn giáo của người dân. Điều khoản này bảo đảm cho người dân có quyền tin tưởng và thờ phượng theo như họ mong muốn và chính quyền không được phép can thiệp vào. 
Từ trước năm 1972, một đạo luật của tiểu bang Wisconsin đã bắt buộc mọi cha mẹ phải gửi các con tới trường trung học. Đạo luật này bị giáo phái Tin Lành Amish phản đối. Trong hàng thế kỷ, các người Amish này đã chủ trương nên sinh sống xa lánh xã hội mới, họ đã kiện tiểu bang Wisconsin là đã can thiệp vào niềm tin tôn giáo của họ. Trong vụ án Wisconsin v. Yoder (1972) này, Tòa Án Tối Cao đã phán xét rằng tiểu bang Wisconsin không có quyền bắt các học sinh theo đạo Amish phải học quá lớp 8 và người Amish có tự do thực hành niềm tin của họ. Cũng trong một trường hợp tương tự với vụ án Sherbert v. Verner năm 1963, Tòa Án Tối Cao ra lệnh rằng các người theo đạo Seventh-Day Adventist có quyền hưởng tiền thất nghiệp (unemployment benefits) dù rằng họ không làm việc vào ngày thứ bẩy (ngày Sabbath).
Sự tự do tôn giáo được bảo đảm bằng Tu Chính Án Thứ Nhất nhưng các tòa án luôn luôn đặt ra một số giới hạn về quyền tự do thực hành tôn giáo. Người dân Hoa Kỳ có tự do tôn giáo nhưng họ không có quyền vi phạm các đạo đức, sự an toàn, an sinh và sức khỏe của các người khác trong xã hội. Hơn một thế kỷ về trước, vào năm 1879, có một người theo đạo Mormon tên là Reynolds cư ngụ tại tiểu bang Utah, đã bị truy tố vì kết hôn với hai phụ nữ. Vì nhà thờ Mormon vào thời bấy giờ chấp nhận chế độ đa thê nên ông Reynolds đã phản kháng, cho rằng việc thi hành luật lệ đã vi phạm vào sự tự do tôn giáo của ông ta (vụ án Reynolds v. United States). Tòa Án khi đó đã phán quyết rằng: không thể nại cớ Tu Chính Án Thứ Nhất để bảo vệ các hành động không thiện cảm với hòa bình, trật tự tốt và luân lý của xã hội. Kể từ đó, đã có các giới hạn tự do tôn giáo, như các luật lệ sau: 
– Bậc cha mẹ từ chối việc chữa trị y khoa cho các con bị đau ốm, nại cớ vì lý do tôn giáo, có thể bị truy tố về tội hình sự (vụ án People v. Peirson, 1903). 
– Không được dùng các con rắn độc trong các buổi lễ tôn giáo (vụ án Bunn v. North Carolina, 1949). 
– Các nhà lãnh đạo tôn giáo trốn tránh việc trả thuế lợi tức có thể bị cầm tù (vụ án Hocky v. Sun Myung Moon, 1982). 
– Các đại học tôn giáo vi phạm kỳ thị chủng tộc sẽ bị tước bỏ quyền miễn thuế (vụ án Bob Jones University v. United States, 1982). 
– Các người Do Thái không được phép đội mũ đỉnh đầu (skullcaps) khi mặc quân phục (vụ án Goldman v. Secretary of Defense, 1986).
Đã có các trường hợp vi phạm, vì niềm tin tôn giáo của cá nhân xung khắc với các nguyên tắc chung của xã hội hay quốc gia và cũng vì vậy, trong thời kỳ chiến tranh, sự việc đất nước cần tới các công dân phục vụ trong quân đội được coi là ưu tiên hơn các niềm tin tôn giáo từ chối tham gia vào việc cầm súng. 
Một vấn đề tranh luận khác là việc chào quốc kỳ. Vào các thập niên 1930 và 1940, đã có 17 tiểu bang thông qua các đạo luật bắt buộc các học sinh theo học các trường công lập phải chào lá cờ Mỹ vào buổi sáng. Sự việc này đã khiến các người theo đạoNhân chứng của Jehovah phản đối, vì họ cho rằng chào một lá cờ là tôn sùng một biểu tượng tà giáo. Vì vậy, con cháu của những người kể trên đã không tuân theo luật lệ chào cờ và rồi hai em Lillian 10 tuổi và William Gobitis 12 tuổi, bị đuổi khỏi trường học. Vụ tranh cãi này đã được mang ra trước pháp đình và Tòa Án Tối Cao đã phán quyết rằng luật chào cờ làm thăng tiến sự đoàn kết quốc gia (national unity) và đây là căn bản của nền an ninh quốc gia. 
Vụ án kể trên (School District v. Gobitis, 1940) đã bị các học giả về luật pháp và giới truyền thông chỉ trích nên ba năm về sau, Tòa Tối Cao đã xét lại quyết định, với ba vị chánh án xác nhận rằng phán quyết về vụ Gobitis là một sai nhầm. Năm 1943 trong vụ án Bộ Giáo Dục tiểu bang West Virginia v. Barnett, cũng liên quan tới các con em của giáo phái Nhân Chứng của Jehovah không chịu chào cờ, Tòa Án đã xác nhận sự quan trọng của việc đoàn kết quốc gia nhưng cũng tuyên bố rằng chính quyền không nên bắt buộc các công dân thực thi các lễ nghi ái quốc nếu họ không muốn.
Việc tranh đấu cho sự tự do tôn giáo được khởi đầu do các ông Thomas Jefferson, James Madison và George Mason cùng một số nhà lãnh đạo chính trị khác bằng đạo luật Tự Do Tôn Giáo của Tiểu Bang Virginia vào năm 1786, nhờ vậy đã có sự ngăn cách giữa Nhà Thờ và Quốc Gia và từ đó, mọi người dân Hoa Kỳ được hoàn toàn tự do duy trì niềm tin của mình.

Phạm Văn Tuấn
(nguồn : nghiencuulichsu.com))

Không có nhận xét nào: