20/6/17

Kỷ nguyên tàu buồm ở Châu Âu


Biên dịch : hongsonvh




Giới thiệu về chiến thuật hải quân kỷ nguyên Tầu Buồm

Chiến thuật hải quân trong trong kỷ tầu buồm đã được sử dụng từ những năm 1600 trở đi khi tầu buồm thay thế tầu Galley sử dụng máy chèo. Chúng được sử dụng cho đến thập niên 1860 khi tàu chiến bọc thép động cơ hơi nước thay thế dòng tầu chiến chạy bằng buồm đã lỗi thời.

Chiến Thuật

Chiến thuật hải quân trong Age of Sail chủ yếu được xác định bằng:

Kỹ thuật, trình độ sử dụng buồm
Kỹ thuật chiến đấu thuỷ thủ đoàn (đặc biệt thuật sử dụng pháo)
Và chất lượng của các tầu chiến chạy buồm thời gian đó.

Ba yếu tố đó hạn chế những gì một đô đốc hạm đội tầu buồm có thể ra lệnh cho hạm đội của mình có thể làm. Các hạn chế đầu tiên được rằng, giống như tất cả các tàu chạy bằng buồm, tàu chiến cơ động bằng buồm không thể đi trực tiếp vào trong cơn gió. Hầu hết các tầu buồm không thể vào gần hơn 70 độ khi tắt gió. Điều này là hạn chế khả năng cơ động của hạm đội trong một trận cận chiến. chiếm lợi thế gió ( weather gage ), tức là chiếm được hướng ngược gió của một của đối thủ, được coi như là một lợi thế chiến thuật đáng kể.

Khó khăn thứ hai là các tàu thời gian này thường biên chế cơ số súng của chúng thành hai khẩu đội lớn, mỗi khẩu đội bên mỗi mạn tầu, chỉ một số ít được bắn trực tiếp từ phía trước hay ơ? phía sau. Các tàu chiến chạy buồm vô cùng mạnh mẽ khi sử dụng các pháo mạn của nó, nhưng hoả lực lại rất yếu ở mũi và đuôi tầu. Các mạn của con tàu được chế tạo bằng gỗ cứng, chắc nhưng đuôi tầu lại đặc biệt là mỏng manh với một hệ thống lớn các cửa sổ của khoang hành lý của các sỹ quan.

Khu vực mũi và đặc biệt là đuôi tầu dễ bị tổn tương bởi súng bắn thia lia. Bắn thia lia vào một con một tàu bằng cách bắn theo chiều dài của một con tàu từ mũi tầu đến đuôi tầu sẽ gây một thiệt hại rất to lớn, bởi vì một phát đạn duy nhất sẽ bay dọc theo chiều dài của sàn tầu, trong khi tàu đang bị bắn thia lia không thể bắn trả bằng các pháp mạn của nó được ( Đạn đại bác các thế kỷ trước hình cầu, sức xuyên phá yếu, nên khi chạm vào sàn tầu đối phương không đủ sức xuyên qua mà chỉ lăn ầm ầm trên sàn –> quét sạch những gì nó gặp , đây là cách bắn thia lia).

Khó khăn thứ ba là khó khăn trong việc liên lạc trên biển. liên lạc bằng thư tín là gần như không thể được trong một hạm đội tàu đang vận động, trong khi sử dụng những lời gọi là vô cùng khó khăn vì tiếng ồn của gió và thời tiết. Vì vậy, các đô đốc đã buộc phải dựa vào sự bố trí của một bộ cờ tín hiệu có sẵn trên tàu kỳ hạm của đô đốc. Trong khói lửa của trận đánh, thường rất khó khăn hoặc không thể nhìn thấy các tín hiệu này.

Thế kỷ cuối 15 người ta chứng kiến sự ra đời của lớp tầu chiến the man-of-war, một tàu chiến đi đại dương thực sự mang buồm vuông có thể được phép chạy nương vào gió, và trang bị rất nhiều pháo. Việc mang súng nặng làm cho phần đầu của fore và after castles bị suy yếu hơn trước đây, nơi qua vị trí này chống các loại vũ khí cá nhân thời Trung Cổ, tạo ra khả năng bị lật thuyền. Điều này có nghĩa rằng những nơi trước đó đã giữ cho tàu có thể được sử dụng được hoặc là tàu buôn hoặc là tàu chiến bây giờ đã chứa đầy súng pháo và đạn dược. Do đó tàu đã trở thành như là một tàu chiến chuyên nghiệp, do đó sẽ dẫn đến một hạm đội thường trực thay vì dựa vào hợp đồng tạm thời. Tầu chiến lớp the man-of-war cuối cùng đã kết thúc thời của các galley quá lạc hậu, ngoại trừ cho các hoạt động gần với bờ biển trong thời tiết không có gió. Với sự phát triển của Tầu chiến lớp the man-of-war , và sự bắt đầu của những hạm đội tầu buồm vĩ đại có khả năng chiếm cứ một vùng biển trong thời gian dài, tạo ra một sự cần thiết cho một thích ứng mới về nguyên tắc cũ của chiến thuật hải quân.

Một chiếc tàu mà sự cơ động của nó phụ thuộc vào gió thì không thể hy vọng để sử dụng đòm ram ( đòn bơi ngoặt và húc và sườn tầu đối phương bằng Ram ?” mũi nhon bọc đồng của tầu mình). Một tàu buồm không thể sử dụng đòn ram, trừ khi nó được cơ động trong một cơn gió đủ mạnh. Trong một cơn gió nhẹ sức tấn công của nó là không hiệu quả, và đòn này không thể được thực hiện ở ở tất cả các vị trí ngược gió. Hải quân Tây Ban Nha vẫn duy trì dài lâu dài chiến thuật là đâm mũi tầu của mình vào sườn tầu đối thủ, và tung thủy thủ đoàn lên chiếm boong của nó. Để thực hiện chiến thuật tấn công như thế này, tự nhiên người Tây Ban Nha phải sẽ cố gắng đến vị trí lợi gió (windward) và sau đó lao xuống theo chiều gió để tấn công tầu đối phương. Nhưng khi đối thủ ở vị trí dưới gió (leeward) luôn luôn có thể ngăn cản chiến thuật tấn công này bằng cách cơ động ra xa, và nổ hết các pháo mạn của mình để làm tê liệt đối thủ bằng cách bắn gục các cột buồm.


Ảnh minh họa về các tình huống ngược gió, xuôi gió (leeward, windward)

Một sự đổi mới quan trọng về tổ chức đã được thực hiện bởi Sir Francis Drake. Trước khi có sự chỉ huy của ông, một tàu chiến thường được điều hành bởi một ủy ban bao gồm sỹ quan phụ trách hệ thống buồm (sailing master), hoa tiêu, pháo thủ trưởng và thủy thủ trưởng chủ trì bởi một quý tộc. Drake thấy không cần thiết trong việc có một thành viên của tầng lớp quý tộc, người không có kiến thức chuyên môn và ông ta thiết lập một nguyên tắc là thuyền trưởng của con tàu sẽ chỉ huy duy nhất, dựa trên kỹ năng và kinh nghiệm của mình chứ không phải là vị trí xã hội. Chuyển đổi này đã không bao giờ được thực hiện trong Hải quân Tây Ban Nha nơi mà các quý ông tiếp tục cản trở các hoạt động trong suốt thời kỳ tầu buồm. Hải quân Cách mạng Pháp thì lại mắc một sai lầm ngược lại trong việc thăng chức những chỉ huy hải quân, những người không có kinh nghiệm hoặc đào tạo đầy đủ, hoặc làm việc tốt trong bộ binh chứ không phải ở biển. Hải quân Hoàng gia Anh thì ngược lại được phục vụ bởi nhiều chỉ huy có nguồn gốc bình dân, chẳng hạn như Horatio Nelson (con trai của một giáo trươ?ng), Jervis (con trai của một luật sư), hoặc Collingwood (con trai của một hàng thịt) cũng như của quý tộc người đã chứng tỏ được mình trên biển như: Thomas Cochrane và thậm chí là người làm việc cho Hội đồng Hoàng gia chẳng hạn như John Benbow ( Ý là thế này người Tây Ban Nha hay sử dụng những quý tộc, những người kém chuyên môn nhưng lại có địa vị chính trị lớn vào các vị trí chủ chốt của một con tầu buồm, người Pháp thì ngược lại, sau cách mạng họ chặt đầu các quý tộc và cử các bình dân ?” những người thiếu đào tạo vào vị trí này, còn người Anh thì chọn những người có chuyên môn giỏi mà bất kể xuất thân — > có lẽ chính vì vậy mà thời này người Anh liên tục chiến thắng người Pháp trên biển ?)


Sự Phát triển các chiến thuật trong Hải quân Pháp

Trong Hải quân Pháp, các chiến thuật chèo thuyền được phát triển bởi các chiến thuật gia người Pháp Paul Hoste, Bigot de Morogues và Bourde de Villehuet, những người đã phát triển từ các mã truyền thống của tất cả các thực hành và dịch sang ngôn ngữ khác. Trong suốt thế kỷ 18, chính phủ Pháp phát triển học thuyết chiến lược là Hải quân Pháp phải tập trung vào hoàn thành một nhiệm vụ nào đó (ví dụ hộ tống tầu hàng chẳng hạn), thay vì đánh nhau để kiểm soát biển. Chính phủ Pháp thường miễn cưỡng chấp nhận rủi ro chiến thuật để đạt được mục tiêu chiến lược của họ. Hải quân Pháp bị hạn chế bởi các rụt rè trong các mệnh lệnh của chính phủ. Hạm đội và các hải đội Pháp thường tìm cách để tránh những trận đánh hơn là chấp nhận rủi ro trong một cuộc chiến đối đầu với lực lượng hải quân Anh, như De Ternay đã làm trong tháng 6 1780 về một cuộc chạm trán với một hải đội nhỏ của Anh do Cornwallis chỉ huy ngoài khơi Bermuda. Chiến lược này có dựa vào một chiến thuật. Tàu Pháp thường có xu hướng nổ súng vào buồm của các đối thủ của họ để làm cho chúng mất sự cơ động và cho phép các tàu Pháp trốn thoát và tiếp tục với nhiệm vụ của họ. Tàu Pháp thường bắn các pháo mạn của họ trong những ô súng phía trên của con tầu nhằm vô hiệu hoá đối thủ của họ, nhưng lại gây ít thiệt hại đển các tàu của đối phương và thủy thủ đoàn của họ. Điều này thường xảy ra bởi xu hướng các tầu của Pháp thường nổ súng từ gage dưới gió. Tàu Anh và tầu Hà Lan thì ngược lại, xu hướng sử dụng chiến thuật đối diện, bắn vào cuộn xuống vào thân tầu đối phương, gây ra một cơn bão các mảnh vụn bay làm chết người và giết chết các pháo thủ của các khẩu đội súng của đối phương. Điều này khác biệt trong chiến thuật tạo ra một số cách để giải thích sự khác biệt về con số thương vong giữa hạm đội Anh và Pháp, hạm đội Pháp có xu hướng không chỉ bị thương vong nhiều hơn mà còn có một tỷ lệ chết cao hơn bị thương.


Chiến thuật Ship of the line bị mất hiệu quả vào giữa thế kỷ 18

Khi các cuộc xung đột xảy ra giữa Anh và Pháp trong thế kỷ 18, các trận hải chiến giữa các lực lượng ngang bằng hoặc xấp xỉ bằng nhau đã trở thành phần lớn những trận đánh không quyết định thắng thua. Người Pháp, người thường có ít tàu chiến hơn người Anh trong suốt thế kỷ, đã đau đầu để chiến đấu với chi phí ít nhất có thể, vì sợ hạm đội của họ sẽ bị hao mòn trong trận chiến, tạo cho người Anh một loạt các ưu thế. Vì vậy người Pháp rất ưa thích để tham gia trận đánh ở vị trí dưới gió, một vị trí mà họ có thể tự do rời bỏ trận chiến. Người Pháp thường cho phép Hạm đội Anh chiếm vị trí đầu hướng gió ( Windward) và khi tầu Anh tiến song song với họ và lách lên trước gió để tấn công, họ (người Pháp) vẫn di chuyển về phía trước. Hạm đội tấn công cũng phải tiến về phía trước, tàu của họ (người Anh) di chuyển dọc theo các đường vuông góc với đội hình của những kẻ bị tấn công (người Pháp), nhưng theo đường xiên hoặc đường cong. Những kẻ tấn công sẽ ở vào vị trí “a bow and quarter line” – với phần mũi của lớp thứ hai với phần sau của lớp đầu tiên và như vậy từ đầu đến cuối. Trong trường hợp của một số tàu có sức cơ động của buồm khác nhau, chúng sẽ tạo nên sự khó khăn để duy trì đội hình.

Kết quả thường là các tàu của line tấn công cố gắng lái vào để tấn công trung tâm đội hình của đối phương bắt đầu nổ súng trước và đã bị đánh trả vào buồm — > giảm mức cơ động. Nếu đội hình tấn công vẫn được duy trì, những tầu khác là bây giờ bị giảm tốc độ vì vướng các tàu bị thương, và để đối phương trượt đi dưới gió. Ở tất cả các lần một hạm đội tiến lên từ vị trí đầu hướng gió (Windward) thường bị thương vào xà dọc, ngay cả khi các đội tàu dưới gió không cố ý nhắm vào họ. Các tàu ở vị trí dưới gió có xu hướng là bỏ chạy, và phát đạn của họ luôn luôn có xu hướng bay cao. Vì vậy cứ là các tầu tấn công chiếm vị trí đầu hướng gió (Windward) thì các tàu dưới gió luôn luôn có thể trượt ra và chạy mất.

Chiến tranh ở thế kỷ 18 tạo ra một loạt các trận hải chiến không có người chiến thắng về chiến thuật giữa các hạm đội xếp thành các tuyến dài, chẳng hạn như trận Malaga (1704), Rügen Island (1715), Toulon (1744), Minorca (1756), Negapatam (1758), Cuddalore (1758), Pondicherry (1759), Ushant (1778), Dogger Ngân hàng (1781), Chesapeake (1781), Hogland (1788) và -land (1789). Mặc dù một vài trận trong số này là trận đánh có kết quả quan trọng chiến lược, như trận Chesapeake trận mà người Anh đã giành chiến thắng, tất cả các trận này đều không có các chiến thắng về chiến thuật. Nhiều vị Đô đốc bắt đầu tin rằng một trận đánh giữa hai hạm đội không thể tạo ra một kết quả quyết định. Những trận đánh có ý nghĩa quyết định về chiến thuật của thế kỷ 18 là tất cả những trận rượt đuổi, mà một trong những hạm đội tàu này đã rõ ràng vượt trội hạm đội khác, chẳng hạn như trong hai trận đánh tại Finisterre (1747), và những c Lagos (1759), Quiberon Bay (1759) và Cape St Vincent (1780).

Sự đổi mới về chiến thuật của hải quân Anh là rất chậm chạp bởi một vụ tranh chấp giữa hai đô đốc do hậu quả của Trận Toulon. Hạm đội Anh của Đô đốc Thomas Mathews đã không thể rút lui khỏi trận chiến với hạm đội Pháp, và Mathews ra lệnh cho một cuộc tấn công, ý định của các tàu Anh là tấn công phía sau tầu Pháp. Ông không có tín hiệu mà qua đó ông có thể truyền đạt ý định của mình cho hải đội phía sau theo do Phó Đô đốc Richard Lestock chỉ huy, đối thủ chính trị của ông và là vị chỉ huy cao cấp thứ hai, vẫn duy trì một cách cứng nhắc hướng về trước, đi xa về phía sau của địa điểm xảy ra trận đánh này. Một loạt những diễn biến tiếp theo của tòa án quân sự, và phiên tòa này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị xâm nhập vào bởi bạn bè của Lestock trong Nghị viện, đã trừng phạt Mathews và các thuyền trưởng người đã ủng hộ ông trong trận đánh, và minh oan cho Lestock. Trong một loạt các trận đánh sau đó, các đô đốc những người muốn đi chệch khỏi hướng dẫn cẩm nang chiến đấu của Hải quân đã được nhắc nhở về số phận của Mathews.

Phát triển trong thời gian chiến tranh độc lập của Mỹ

Các đặc điểm không đạt yêu cầu của chiến thuật chấp nhận giao chiến của các trận hải chiến trên biển đã bắt đầu rõ ràng đến các sỹ quan hải quân của cả Pháp và Anh, vào thế kỷ 18 và sau đó vấn đề này bắt đầu được giải quyết trong nhiều trận đánh ở Chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ. Rõ ràng là cách duy nhất để tạo ra kết quả quyết định là tập trung các cuộc tấn công vào một phần của dòng tầu của đối phương, tốt nhất là tấn công vào phía hậu quân để cách trung tâm phải quay về hỗ trợ nó.

Vị đô đốc vĩ đại người Pháp Suffren lên án chiến thuật của hải quân Pháp có rất ít các cải thiện và rằng chiến thuật này của người Pháp là để bào chữa cho việc cố trốn tránh một cuộc hải chiến thực sự. Ông tìm một phương pháp chiến thuật tốt hơn, bằng cách tập trung lực lượng vượt trội so với từng phần của dòng tầu của đối thủ của ông trong một số trận hải chiến của ông với hạm đội Anh tại Ấn Đông trong năm 1782 và 1783, chẳng hạn như Trận Sadras nơi Suffren cố gắng tập trung đông gấp đôi đội hậu quân của dòng tầu Anh. Nhưng mệnh lệnh của ông bị từ chối và không được tuân theo, đối thủ của ông Sir Edward Hughes có thẩm quyền, và chất lượng của các hạm đội của ông đã không cao hơn hẳn của những người Anh.

Tương tự như vậy, đô đốc Anh Rodney trong trận Martinique ở Tây Ấn năm 1780, đã cố gắng tập trung một lực lượng vượt trội so với một phần của dòng tầu (line) của kẻ thù của mình bằng cách tung ra một số lượng lớn các tàu Anh về phía hội hậu quân của dòng tầu Pháp. Nhưng chỉ dẫn của ông bị hiểu lầm và không được thực thi đúng cách. Hơn nữa ông đã không đi xa hơn cố gắng đó để đặt một số lớn hơn của tàu của mình trong trận đánh ở vị trí đầu hướng gió Windward để tấn công một số nhỏ hơn ở dưới gió bằng cách sắp xếp chúng ở khoảng cách ít hơn hai chiều dài cáp. Kẻ thù, những người đã quá hiểu rõ ràng chiến thuật Ship of the line của ông đã phá vỡ cuộc tấn công, và trong khi rút lui ở dưới gió và thoát ra ngoài. Giống như Suffren, Rodney là một nhà chiến lược lớn, nhưng là người không thể giải thích về ý định của mình với cấp dưới.

Tại Trận Saintes trong 12 tháng 4 năm 1782, Rodney đã gây ra, và cũng bởi một sự thay đổi của hướng gió, các rối loạn trong line tầu Pháp, bằng cách phá vỡ dòng tầu của mình và đi qua dòng của đối phương. Hiệu quả đã được quyết định. Súng của các tàu Anh đã tập trung vào một số ít các tàu Pháp và người Anh đã phá vỡ qua line tầu của Pháp tại ba điểm, và gắn kết chiến thuật của hạm đội Pháp đã bị phá hủy. Đến cuối trận đánh, Rodney đã bắt giữ được kỳ hạm của Pháp và bốn tàu khác. Kết quả của thành công này xuất phát từ chiến thuật cũ là giữ dòng tầu nguyên vẹn trong suốt cuộc chiến đã phá hủy quan niệm cũ của hệ thống chiến thuật chính thống.

Phát triển trong Chiến tranh Cách mạng Pháp & Napoleon

Bởi sự bùng nổ của Chiến tranh cách mạng Pháp năm 1793, các cải tiến kỹ thuật và sự vô tổ chức của Hải quân Pháp trong cách mạng đã kết hợp và tạo ra cho tàu chiến của Anh một ưu thế khác biệt so với tàu của hải quân Pháp và Tây Ban Nha. Anh đã có một đại dương lớn thương mại lớn hơn nhiều so với bất cứ kẻ thù nào của chính của mình, và có sự phục vụ của một lực lượng lớn thủy thủ chuyên nghiệp sẵn sàng được chuyển sang lính thủy khi cần. Trong suốt thế kỷ 18 hải quân Pháp và, đặc biệt là hải quân Tây Ban Nha phải liên tục đối phó với những khó khăn nghiêm trọng và thường xuyên bị buộc phải thành lập các thủy thủ đoàn bằng binh lính hoặc người từ đất liền.

Tàu Anh không những chỉ có một tỷ lệ cao hơn về lính thủy có kinh nghiệm, mà còn có những chuyến đi biển dài hàng tháng để phong tỏa bờ biển hoặc gia nhập các đoàn hộ tống, thuyền trưởng Anh đã cho rất nhiều cơ hội để đào tạo thủy thủ đoàn của họ. Đội pháo thủ Anh dường như đã đạt được một tỷ lệ bắn cao hơn so với đội pháo thủ của Pháp Tây Ban Nha, góp phần vào sự thương vong cao hơn nhiều từ các tầu chiến của hạm đội Pháp ?” Tây Ban Nha. Có các thủy thủ đoàn tốt hơn, các đội pháo thủ nhanh hơn và tinh thần cao của hạm đội Anh là một lợi thế quyết định mà không thể không thể thay thế bằng bất kỳ sự dũng cảm trong các phần của đối thủ của họ.

Đô đốc hàng đầu của Anh Lord Howe dành những suy nghĩ của mình để làm thế nào để phá vỡ dòng của đối phương để tung ra những trận hải chiến kiểu ( pell mell ?” không biết là gì) để mang lại kết quả là một chiến thắng quyết định. Tại trận đầu tiên của tháng sáu vào năm 1794, Lord Howe đã ra lệnh hạm đội của mình đi xuyên qua hàng ngũ của đối phương, và sau đó tấn công các tàu Pháp từ dưới gió, để cắt rút lui bình thường của họ. Điều này có hiệu lực như là đưa hạm đội của mình vào một melee ( đánh hỗn chiến ) trong đó với ưu thế của cá nhân từng chiếc tầu chiến Anh,ông đã có thể tấn công thoải mái.

Trong suốt cuộc chiến tranh kéo dài chỉ với một khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi 1793-1815, các đô đốc Anh như Jervis, Duncan và đặc biệt Nelson đã phát triển liên tục các phương pháp họ đã áp dụng để tạo ra các trận Melee mà họ mong muốn trận Cape St Vincent, Camperdown và Trafalgar. Chiến thuật cơ bản nhất là cách tiếp cận (head -on không biết là gì ) theo cột được sử dụng bởi Nelson tại Trafalgar (đến trận Trafalgar ta sẽ xem nó là cái quái gì), ông đã để cho tầu đối phương nổ súng vào các tầu của mình mà không bắn trả cho tới khi họ đến gần, nhưng sau đó ông đã tạo ra một sự tàn phá khủng khiếp khi các tầu của Anh bắn trả vào đội hình tầu của Pháp-Tây Ban Nha.

Người ta đôi khi cho rằng chiến thuật mà các đô đốc của Anh đã sử dụng và có thể trở nên là tai hại nếu họ tấn công vào các đối thủ lành nghề. Nhưng đây là một trong những lời phê bình chỉ có giá trị đối với những người nghĩ rằng có thể có một hiệu quả kỳ diệu – mang tính chất phép màu trong bất kỳ cuộc tấn công cụ thể nào, tạo ra một sự thành công tuyệt đối. Chiến thuật của các đô đốc người Anh trong các cuộc chiến tranh lớn năm 1793-1815 trong chính họ không có hiệu quả như vậy đã được chứng minh đầy đủ ở Trận Lissa năm 1811. Người ta đã chứng minh sự tin cậy của các đô đốc vào chất lượng cao của các hạm đội của họ. Cần nhớ rằng một chiếc tàu chiến, trong khi tấn công xuống một dòng tàu của đối phương, không thể lộ mục tiêu để dính đạn của ba tầu của đối phương cùng một lúc khi ở khoảng cách xa hơn 950 yards, vì các pháo thủ có thể không được đào tạo để hội tụ tại một điểm gần. Phạm vi toàn bộ của súng hải quân có hiệu quả chỉ là một nghìn mét hoặc rất ít hơn. Xác suất mà tàu sẽ bị bắn hỏng buồm và dừng lại trước khi tiếp cận dòng của đối phương là nhỏ.

Pháo hải quân kỷ tầu buồm

Pháo hải quân trong Age of Sail bao gồm các khoảng thời gian 1571-1863: khi tàu chiến hải quân bằng gỗ lớn, cơ động bằng buồm thống trị biển cả, chúng được gắn nhiều loại và kích cỡ pháo khác nhau như là các vũ khí chính. Theo tiêu chuẩn của thời đó, những khẩu pháo này rất kém hiệu quả, rất nặng để tải, và tầm súng thì rất ngắn. Với những đặc điểm này, cùng với tay nghề của thủy thủ đoàn của chiếc tàu chiến mà chúng được vũ trang, đã xác định môi trường cho chiến thuật của Hải quân trong kỷ tầu buồm phát triển.

Bắn súng


Khái quát một phần của pháo:
1.Đạn hình cầu
2. thuốc súng
3. Lỗ kim hỏa

Việc bắn một pháo hải quân yêu cầu một số lượng lớn lao động và sức lực. Liều phóng là thuốc súng, chúng có số lượng lớn phải được giữ trong một khu vực lưu trữ đặc biệt dưới boong cho an toàn. Các cậu bé thuốc súng, thường là trẻ em 10-14 tuổi, được cho gia nhập để chạy từ kho thuốc súng lên đến sàn súng của một tàu theo yêu cầu.


Một khẩu đội pháo hải quân của Pháp đang chuẩn bị phát hỏa, chú ý tay khẩu đội trưởng đang cầm chiếc linstock để điểm hỏa, chếch ở bên trái là cậu bé thuốc súng

Thủ tục cho một lần bắn súng như sau: Một que thông nòng với bông ướt được sử dụng để lau ra bên trong của nòng súng, lau sạch bất kỳ đám tro tàn nào của phát bắn trước đây có thể làm cho thuốc súng của phát bắn tiếp theo tắt sớm. Thuốc súng, hoặc là dạng bột hoặc được bọc trong một miếng vải hoặc trong giấy da, và được đặt trong nòng, sau đó được đút nút bằng vải, và được tống vào nòng súng với một que thông nòng. Phát đạn tiếp theo được cho vào, tiếp sau là nút vải ( để ngăn chặn quả đạn pháo hình cầu lăn ra khỏi nòng súng nếu miệng súng bị chúc xuống ). Sau một phát bắn, nòng súng được đặt trong một chiếc bệ có bánh xe chạy giật lùi ?” các pháo thủ đẩy bệ súng cho đến khi mặt trước của bệ súng áp vào thành của con tàu, và nòng súng thò ra khỏi cổng súng. Công việc này làm tốn phần lớn nhân lực của pháo đội vì tổng trọng lượng của một nòng pháo lớn trong chiếc bệ của nó có thể đạt tới hơn hai tấn, và tàu có lẽ sẽ ngả nghiêng. Các lỗ kim hỏa ở phía sau ( khóa nòng súng) nòng pháo chứa đầy bột thuốc súng mịn và dễ bốc cháy.

Phương pháp bắn pháo trước đó sử dụng một linstock – Một cọc gỗ giữ một mồi lửa đang cháy âm ỷ ở phía cuối ?” để châm vào lỗ kim hỏa của súng. Việc này là khá nguy hiểm và làm thế nào để bắn chính xác từ một con tàu di chuyển là khá khó khăn, khi súng được bắn từ phía bên trong, để tránh giật súng (recoil), và đã có một sự chậm trễ đáng kể trong việc ứng dụng linstock vào bắn súng. Năm 1745, người Anh bắt đầu sử dụng khóa nòng súng ( gunlock ) (cơ chế súng kíp FLINTLOCK được trang bị để bắn pháo).

Gunlock này được điều hành bởi một dây kéo, hoặc Dây buộc. Pháo thủ trưởng có thể đứng đằng sau khẩu súng, một cách an toàn ngoài phạm vi giật lùi của khẩu súng, và ngắm dọc theo nòng súng, nổ súng khi sự tròng trành của con tầu tạo một đường thẳng từ khẩu súng tới đối phương và để tránh những phát bắn trượt xuống biển hoặc bay cao lên trên boong của đối phương. Với lợi thế của nó, việc sử dụng của gunlock dần dần lan tỏa nhưng họ không thể trang bị chúng vào các súng cổ hơn. Người Anh đã ứng dụng phương pháp này nhanh hơn Pháp, người nhìn chung vẫn không chịu ứng dụng chúng tới tận thời gian xảy ra trận Trafalgar (1805), và người Pháp đã tự đặt họ vào một bất lợi trước Hải quân Anh. Sau khi đưa gunlock vào sử dụng, linstock được giữ lại, nhưng chỉ như là một phương tiện bắn dự phòng.
Ngòi lửa cháy chậm của Linstock, hoặc các tia lửa từ FLINTLOCK làm bốc cháy bột thuốc súng, tạo nên một lực đẩy, mà chúng đẩy các quả đạn hình cầu bắn ra khỏi nòng súng. Khi súng ngừng bắn, khẩu súng chạy giật lùi khi nó bị chặn ngừng lại bởi sợi dây breech – một sợi dây thừng vững chắc được đóng bu lông cho vào thành tầu.


Tranh vẽ một khẩu pháo mạn với các viên đạn hộp Canister shot) treo bên cạnh

Một pháo mạn điển hình của một tàu Hải quân Hoàng gia Anh ở cuối thế kỷ 18 có thể bắn 2-3 phát trong khoảng 5 phút, tùy thuộc vào việc đào tạo của các thủy thủ đoàn, một pháo thủ được đào tạo tốt là rất cần thiết cho quá trình chuẩn bị bắn đơn giản nhưng chi tiết. Trớ trêu thay, Hải quân Anh đã thường không cung cấp bổ sung thuốc súng cho các thuyền trưởng để đào tạo cho các đội súng của họ, họ thường chỉ cho phép tải lên tàu 1 / 3 lượng bột thuốc súng cần thiết và sẽ được sử dụng trong sáu tháng đầu tiên của một chuyến đi điển hình, để ngăn chặn các hành động thù địch. Thay vì thực hành bắn súng thực tế, hầu hết các thuyền trưởng rèn luyện các pháo đội của họ bằng cách đẩy những khẩu súng vào trong và ra ngoài – thực hiện tất cả các bước kết hợp khi bắn và nghỉ bắn như thực tế xảy ra. Một số thuyền trưởng giàu có – những người đã chiếm giữ nhiều tiền giải thưởng hoặc từ các gia đình giàu có – đã phải bỏ tiền ra mua bột thuốc súng bằng quỹ riêng của họ để cho phép pháo đội của mình bắn đạn thật vào các mục tiêu thực tế.


Pháo các loại

Một danh sách đầy đủ và chính xác các loại súng hải quân đòi hỏi phải phân tích theo quốc gia và theo giai đoạn thời gian. Các loại súng được sử dụng bởi các quốc gia khác nhau tại cùng một thời điểm rất không giống nhau, ngay cả khi chúng được đặt tên tương tự như vậy. Các loại súng được sử dụng bởi một quốc gia nhất định sẽ thay đổi rất nhiều theo thời gian, cũng như công nghệ, chiến thuật, thời trang và vũ khí hiện đã tiến hóa.

Một số loại bao gồm:

Gun ?” pháo lớn

Demi-cannon pháo loại

Culverin súng thần công cỡ lớn

Demi-culverin súng thần công cỡ vừa

Súng Carronade

Súng Paixhans

Một mô tả đặc tính được sử dụng phổ biến để xác định cỡ súng là dùng đơn vị đo lường pound: theo lý thuyết, trọng lượng của một đơn vị sắt rắn (đạn) được bắn từ nòng pháo. Kích cỡ thông thường là 42-pounders, 32-pounders, 24-pounders, 18-pounders, 12-pounders, 9-pounders, 8-pounders, 6-pounders, và các cỡ nòng (calibre) nhỏ khác nhau. Tàu chiến Pháp sử dụng súng có cỡ nòng tiêu chuẩn 36-pound, 24-pound và 12-pound, bổ sung thêm các khẩu carronade và loại nhỏ hơn. Nói chung, các tàu lớn hơn sẽ mang nhiều súng hơn và cỡ súng sẽ to hơn.

Kiểu súng nạp đạn đầu nòng và trọng lượng của sắt thép được tính toán cho độ dài và kích thước của súng hải quân. Kiểu nạp đạn đầu nòng yêu cầu các khẩu pháo phải được đặt vị trí bên trong thân tàu. Thân tầu chỉ còn cách là thật rộng, với các khẩu súng ở cả hai bên, và cửa xuống hầm ở trung tâm của boong cũng hạn chế khoảng không sẵn có trên tầu. Trọng lượng luôn luôn là một mối quan tâm lớn trong thiết kế các tàu buồm vì nó ảnh hưởng đến tốc độ, sự ổn định, và khả năng nổi trên mặt nước. Ước muốn chế tạo súng dài hơn để có tầm bắn lớn hơn và độ chính xác cao hơn, và trọng lượng của viên đạn lớn hơn làm cho sức công phá hơn, dẫn đến một số mẫu thiết kế súng thú vị.


Long Nine

Một súng hải quân duy nhất có tên là Long Nine. Đó là một nòng súng tương ứng bắn đạn nặng 9 pound. Điển hình nó thường được gắn ở phần mũi hoặc đuôi tầu, nơi mà nó không vuông góc với đáy tầu keel, và có nhiều khoảng không hơn, cho phép sử dụng những vũ khí dài hơn. Trong tình huống truy đuổi đối phương, tầm bắn lớn hơn của súng sẽ có tác dụng. Tuy nhiên, mong muốn để giảm trọng lượng ở phía cuối của tàu và sự mong manh một cách tương đối của mũi tầu đã giới hạn cỡ súng phải là 9 pound chứ không phải là 12 hoặc 24 pound.


Súng Carronade

Ảnh một khẩu Carronade lấy từ chiến hạm Victoria của Anh

Súng carronade được thiết kế như một thỏa hiệp. Nó bắn một đi một viên đạn rất nặng, nhưng lại có trọng lượng súng giảm xuống vì nó có một thân súng rất ngắn, do đó tầm bắn là ngắn và độ chính xác thấp hơn. Tuy nhiên, ở tầm gần trong nhiều trận hải chiến súng carronade rất có hiệu quả. Trọng lượng của nó nhẹ hơn và yêu cầu các đội pháo thủ ít người hơn cho và phép chúng được sử dụng trên các tàu nhỏ hơn.


Súng Paixhans

Tranh minh họa khẩu súng Paixhans

Súng Paixhans là súng đầu tiên của hải quân sử dụng đạn nổ. Nó được phát triển bởi tướng Pháp Henri-Joseph Paixhans năm 1822-1823, bằng cách kết hợp đường bắn thẳng của một khẩu súng với một quả đạn nổ có thể vỡ ra và tạo ra lửa cháy vào thành tầu của quân địch. Súng Paixhans cuối cùng tạo ra số phận bi đát cho các tầu đóng bằng gỗ, và buộc các bên tham chiến phải cho ra đời các lớp tầu bọc thép ( ironclad ) sau khi Trận Sinop vào năm 1853.


Tranh minh họa một số loại đạn pháo thời kỳ này

Ngoài việc trọng lượng khác nhau của viên đạn, các loại đạn khác nhau cũng được dùng cho các tình huống khác nhau:

– Đạn tròn (Round shot) ?” Những quả đạn hình cầu bằng gang, đây là đạn tiêu chuẩn trong trận chiến hải quân.

– Đạn hộp (Canister shot) ?” Một hộp đạn đầy với hàng chục viên đạn súng hỏa mai. Các hộp vỡ ra sau khi bắn để tạo thành một phát shotgun khổng lồ, đạn này sử dụng để chống lại nhân lực của đối phương.

– Đạn chùm (Grapeshot) ?” Một số lớn đạn tròn nhỏ được gói lại bằng vải buồm sao cho vừa với nòng súng, điển hình là mỗi nòng súng được tống vào ba hoặc nhiều hơn ba lớp. Một số đạn chùm được làm bằng kim loại mỏng hoặc đĩa gỗ giữa các lớp, được nối với nhau bằng một cái chốt ở trung tâm. Những gói này bị phá vỡ sau khi bắn và các quả đạn vung ra rải rác với các hiệu ứng chết người. Nho được thường được sử dụng để tấn công vào boong lái của đối phương để giết hoặc gây thương tích cho các sỹ quan của họ, hoặc chống lại kẻ thù khi chúng nhảy lên chiếm boong.

– Đạn Xích ( Chainshot) – Hai quả đạn sắt được xích lại với nhau. Loại đạn đặc biệt này có hiệu quả để phá buồm, khi được bắn đi viên đạn sẽ giống như một chiếc bolas và quấn rách nhiều buồm của đối phương.

– Đạn Bar (Barshot) – Hai quả đạn cầu hoặc bán cầu được gắn với nhau vào cùng một thanh rắn. Hiệu quả của nó là tương tự như đạn xích.

– Đạn hình mũi tên (Fire Arrow)- Một quả đạn hình mũi tên lớn có ngạnh, quấn với vải buồm tẩm dầu hắc ín sẽ bắt lửa khi súng bắn. Ngạnh làm nó mắc kẹt trong buồm, thân hoặc xà dọc và đốt tàu địch.

– Đạn nổ (Exploding Shell) ?” Loại đạn này làm việc như một quả lựu đạn, nổ và tung mảnh ra khắp mọi nơi, Hoặc viên đạn có thể bay trúng mục tiêu, hoặc có thể nổ trên không do một chiếc cầu chì hẹn giờ. Vỏ đạn thường được dùng cho súng cối, và được dùng chuyên dụng ở “các tàu phóng bom” được thích nghi để bắn súng cối có kích cỡ lớn lên bờ biển. Những quả bom nổ tung trong không khí như trận đánh ở pháo đài Fort McHenry ở Hoa Kỳ.

Tàu tiền tuyến (ship-of-the-line)

Một tầu tiền tuyến là một loại tàu chiến của hải quân được đóng từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, để tham gia vào chiến thuật hải chiến được gọi là Ship of the Line, trong đó hai cột tàu chiến đối lập sẽ vận động uyển chuyển để sử dụng tối đa các hệ thống pháo mạn. Kể từ khi áp dụng chiến thuật này thì kết quả của các cuộc hải chiến hẩu như không thay đô?i, kẻ chiến thắng thường là các tầu hạng nặng nhất và mang súng mạnh nhất, dẫn đến tiến trình tự nhiên là phải dựng các tàu buồm lớn nhất và mạnh nhất trong thời gian này.


Các tiền nhiệm

Nguồn gốc của tàu tiền tuyến có thể được tìm thấy trong các tầu vĩ đại tàu lớn được đóng ở nước Anh trong thế kỷ 15 và 16, các tầu Nau được đóng bởi người Bồ Đào Nha và tương tự như tầu carrack được đóng bởi các quốc gia châu Âu khác cùng lúc này. Những tàu này, được phát triển từ dòng tầu COGS dùng để giao dịch mua bán tại Biển Bắc và Baltic, đây là loại có một lợi thế hơn tầu Galley bởi chúng được đóng những phần rất cao gọi là (Castle) tại mũi tầu và đuôi tầu để các cung thủ bắn trên tàu của đối phương. Theo thời gian các Castle đã trở thành cao hơn và lớn hơn nữa, và cuối cùng đã bắt đầu được đóng trong cơ cấu của tàu để làm tăng sức mạnh tổng thể.

Chiếc Mary Rose là một chiếc carrack của Anh, đã được trang bị với 78 súng (91 sau khi nâng cấp trong Thập niên 1530. Đóng tại Portsmouth, Anh 1510-1512, nó là một trong những tàu chiến được đóng sớm nhất để phục vụ trong Hải quân Anh, người ta là nghĩ rằng nó ấy không bao giờ phục vụ như là một tàu buôn. Nó có tải trọng 500 tấn và một cái đáy (keel) dài hơn 32 m (106 ft) với một thủy thủ đoàn bao gồm 200 người, 185 chiến binh, và 30 pháo thủ. Mặc dù nó là niềm tự hào của hạm đội Anh, nó vô tình bị đắm trong Trận chiến Solent chống lại quân đội Pháp ngày 19 tháng bảy năm 1545.

Henri Grâce à Dieu, biệt danh (Great Harry), là một chiếc tàu lớn của Anh ở thế kỷ 16. Cùng thời với chiếc Mary Rose, chiếc Henri Grâce à Dieu dài 165 feet (50 m), cân nặng 1,000-1,500 tấn và có một thủy thủ đoàn lên tới 700-1,000 người. Người ta nói rằng nó đã được đóng theo ý định Henry VIII để làm đối trọng với tàu của Scotland chiếc Great Michael, hạ thủy năm 1511. Nó (Great Harry) ban đầu được đóng tại Woolwich Dockyard 1512-1514 và là một trong những tàu đầu tiên có tính năng gunports (có các ô súng) và có hai mươi khẩu pháo bằng đồng nặng mới, cho phép bắn pháo mạn. Tổng nó gắn 43 khẩu súng hạng nặng và 141 khẩu súng hạng nhẹ. Nó là chiếc đầu tiên của Anh có hai tầng boong, và khi ra mắt nó là chiếc tàu chiến lớn nhất và mạnh nhất ở châu Âu, nhưng chỉ tham gia những hành động nhỏ. Nó đã có mặt tại trận Solent để chống lại Francis I của Pháp năm 1545 (trong đó Mary Rose chìm) nhưng dường như đã có thêm chức năng chính là một tàu ngoại giao với những cánh buồm vải mầu vàng. Thật vậy, các tàu lớn hầu như cũng biết đến vì thiết kế trang trí độc đáo của chúng

Những chiếc tàu đầu tiên sử dụng thí nghiệm với việc mang súng có cỡ nòng lớn trên tàu. Do phần thân tầu của nó cao và lớn hơn nên khả năng mang tải tốt hơn, loại tàu được cho là phù hợp hơn với vũ khí nóng (vũ khí sử dụng thuốc súng) so với tầu galley. Do sự phát triển của nó là từ tàu biển trên Đại Tây Dương, những tàu lớn thì chịu được thời tiết tốt hơn tầu Galley và phù hợp hơn để đi ra vùng biển mở. Việc không dùng mái chèo có nghĩa rằng đối với tầu lớn, đội chèo là không cần thiết, và có khả năng tham gia những chuyến đi dài ngày hơn. Bất lợi của chúng được rằng chúng hoàn toàn phụ thuộc vào gió để cơ động. Tầu Galley vẫn có thể áp đảo các tàu lớn, đặc biệt là khi trời có rất ít gió và galley đã có một số lợi thế, nhưng khi các tàu lớn có kích thước ngày càng lớn, tầu Galley trở nên ít hơn và ít có ích.

Một tổn hại là phần forecastle quá cao, can thiệp vào những phẩm chất của các cánh buồm của con tàu; mũi tầu sẽ bị buộc phải chúc xuống dưới thấp trong khi bơi trước gió. Tuy nhiên, vào thời gian mà súng đã được biết đến và bắn súng để thay thế cho việc đổ bộ chiếm boong tầu chở thành chiến thuật chủ yếu của hải chiến trong suốt thế kỷ 16, những forecastle thời kỳ Trung cổ đã trở nên không còn cần thiết, và tàu buồm sau này cũng như tầu Galleon chỉ có một boong thấp và phần forecastle cao. Vào khoảng năm 1637 với việc hạ thủy chiếc tầu mạnh mẽ của của Anh Quốc, chiếc Sovereign of the Seas, các forecastle cao đã hoàn toàn biến mất.

Từ 16 đến thế kỷ 18, các tàu lớn và các tầu carrack tiến hóa thành tàu Galleon, thân tầu trở nên dài hơn, nhiều loại tàu được điều khiển dễ dàng hơn cộng với tất cả những lợi thế của tàu lớn. Các hạm đội tầu đối địch Anh và Tây Ban Nha trong chiến dịch Tây Ban Nha Armada đều có xương sống là các Galleon lớn. Vào thập kỷ 1710 các nước ở châu Âu có hải quân tiên tiến đều đóng những loại tầu như thế này.

Với tầm quan trọng ngày càng tăng của các thuộc địa và việc thăm dò cũng như nhu cầu duy trì các tuyến đường thương mại trên đại dương bão tố, tầu Galley và galleasses đã được sử dụng ít hơn và ít hơn nữa, và vào khoảng 1750 (tầu Galley và galleasses) chỉ có rất ít tác động đến các trận hải chiến


Chấp nhận chiến thuật Line-of-battle

Từ đầu đến giữa thế kỷ 17, kỹ thuật chiến đấu mới được sử dụng bởi hải quân một số nước Châu Âu, đặc biệt là người Anh và Hà Lan. Trước trận đánh thường là trận chiến của các đội tàu lớn gồm các tàu bơi nhau và tấn công lẫn nhau tại bất kỳ vị trí nào mà họ nhìn thấy đối phương, chiến thuật thường là áp mạn tầu và tấn công lên bong tầu. Tuy nhiên, việc phát triển hơn nữa của súng và sự chấp nhận của việc sắp xếp súng ở các mạn tầu yêu cầu một sự thay đổi về chiến thuật. Với loại vũ khí quyết định chính là các pháo mạn, phát triển các chiến thuật để đảm bảo rằng tàu chiến có thể nổ càng nhiều pháo mạn càng tốt. Chiến thuật line-of-battle đòi hỏi sự cần thiết để tập hợp một đội hình dài đơn dòng và gần với hạm đội đối phương trên cùng một hướng, nổ các khẩu đội súng mạn tầu vào hạm đội đối phương cho đến khi một bên cảm thấy đã lĩnh đủ và rút lui. Mọi thao tác được thực hiện với các tàu còn lại trong đường dây để bảo vệ lẫn nhau.

Việc chấp nhận chiến thuật trận đánh theo tuyến line-of-battle đã gây những hậu quả cho việc thiết kế tàu. Lợi thế chiều cao của các bộ phận Forcastle và Aftcastle đã giảm, bây giờ chiến đấu hand-to-hand là không cần thiết. Sự cần thiết để có một khả vận động uyển chuyển trong trận chiến với trọng lượng Forcastle là một bất lợi. Vì vậy, họ tìm cách giảm mạnh phần này, làm cho con tàu tiền tuyến (of-the-line) trở nên nhẹ hơn và nhiều khả năng cơ động hơn, dễ điều khiển hơn nữa manoeuvrable hơn so với bậc tiền bối của nó với cùng một sức mạnh chiến đấu. Như một hệ quả phát sinh, các thân tầu trở nên rộng lớn hơn, cho phép tăng kích thước và số lượng súng lên nhiều hơn.


Sự tiến hóa của thiết kế


Sơ đồ của một chiếc tầu tiền tuyến của Hải Quân Anh Quốc

Trong thế kỷ 17 hạm đội có thể bao gồm gần một trăm tàu thuyền các kích cỡ khác nhau, nhưng vào giữa thế kỷ 18, tàu of-the-line được thiết kế để giải quyết một vài loại tiêu chuẩn cũ: loại hai decker (nghĩa là, với hai sàn súng )với khoảng 50 khẩu súng (đã trở thành quá yếu cho trận tuyến nhưng có thể được sử dụng để hộ tống đoàn convoys), loại hai boong ( decker) có 64 đến 90 khẩu súng hình thành phần chính của hạm đội, và loại lớn hơn với ba hay thậm chí bốn decker với 98-140 khẩu súng đã được sử dụng như là tàu kỳ hạm của đô đốc. Một hạm đội gồm khoảng 10-25 tầu chiến, với các tàu cung cấp hàng hóa, hướng đạo và các tàu khu trục, thông báo hạm, đã giữ quyền kiểm soát biển– > làn đường cho chính cho các quốc gia có hải quân phát triển ở châu Âu để hạn chế đường thương mại trên biển của kẻ thù.

Kích thước phổ biến nhất của các tầu chiến tuyến là (74) (đặt tên theo 74 khẩu súng của nó), ban đầu được phát triển bởi người Pháp trong thập kỷ 1730, và sau này được chấp nhận bởi tất cả các cường quốc hải quân. Cho đến thời điểm đó người Anh đã có 6 loại kích cỡ của tàu tiền tuyến, và họ thấy rằng nếu tầu tiền tuyến nhỏ hơn loại có 50 — >60 súng thì trở nên quá nhỏ cho trận đánh theo tuyến (battle of the line), trong khi các loại tầu có hơn 80 súng và hơn 3 boong súng (decker) thì lại khó sử dụng và không ổn định ở vùng biển sóng to. Loại tốt nhất của họ là loại có 70 súng và 2 gundecker, gundeck dài khoảng 46 mét (150 ft), trong khi loại tầu tiền tuyến 74súng của người Pháp chỉ dài khoảng 52 mét (170 ft). Năm 1747 người Anh bắt giữ một vài chiếc trong số các tàu Pháp trong Chiến tranh Kế vị Áo. Trong thập kỷ tới Thomas Slade (Thanh tra trưởng của Hải quân từ 1755, cùng với William Bately) đã đột phá từ những thiết kế cũ và tạo ra thiết kế mới cho một số lớp tàu tiền tiến, loại dài 51 – > 52m và có 74súng để cạnh tranh với các mẫu thiết kế Pháp, và bắt đầu với các lớp tàu Dublin và Bellona (thế này là nhái lại của người Pháp rồi còn gì). Những chiếc kế tiếp chúng dần dần được cải tiến và xử lý các kích cỡ vào thập kỷ 1780. Hải quân của các nước khác cũng kết thúc nghiên cứu và họ cũng tiến hành đóng lớp 74 vì chúng đã đạt được sự cân bằng giữa sức mạnh tấn công, chi phí, và dễ dàng điều khiển. Cuối cùng khoảng một nửa số tàu tiền tuyến của Anh Quốc là lớp 74. Tàu lớn hơn vẫn được đóng, như là tàu chỉ huy, nhưng chúng chỉ hữu dụng hơn nếu chúng chắc chắn áp vào gần được kẻ thù, hơn là trong một trận chiến liên quan đến các hành động truy đuổi kẻ thù hoặc phải ngoặt gấp liên tục. Các tầu lớp 74 vẫn là lớp tàu được ưa thích cho đến 1811, khi phương pháp đóng tầu của Sepping cho phép tàu lớn được đóng với sự ổn định hơn.


Chiếc Victoria, kỳ hạm của đô đốc Hải quân Anh Horatio Nelson

Trong một vài chiếc tàu, thiết kế bị thay đổi khá lâu sau khi tàu được đưa vào phục vụ chiến đấu. Trong Hải quân Hoàng gia, các lớp nhỏ hơn lớp tầu tiền tuyến có hai boong 74 – hoặc 64 súng không thể được sử dụng một cách an toàn trong hoạt động của hạm đội, sàn trên của họ bị loại bỏ (hay razeed), Kết quả tạo ra một lớp tầu chiến rất chắc chắn, lớp tàu chiến đơn boong súng được gọi là razee. Các tàu razeed có thể được phân loại như là một tàu khu trục nhỏ và mạnh hơn rất nhiều. Thành công nhất trong lớp tầu razee của Hải quân Hoàng gia là chiếcHMS Indefatigable, được chỉ huy bởi Sir Edward Pellew.

Chiếc Mahmudiye (1829), được đặt hàng theo lệnh của hoàng đế Ottoman Sultan Mahmud II và đóng bởi Công xưởng của Hải quân Hoàng gia tại Golden Horn tại Istanbul, trong nhiều năm nó là tàu chiến lớn nhất trên thế giới. Nó là chiếc tầu tiền tuyến có kích cỡ 62x17x7-mét và trang bị 128 khẩu pháo trên 3 boong súng. Nó tham gia nhiều trận đánh quan trọng của hải quân, bao gồm cả Cuộc vây hãm Sevastopol (1854-1855) trong Chiến tranh Krym (1854-1856). Nó đã ngừng hoạt động năm 1875.


Tranh vẽ chiếc Valmy của Hải quân Pháp

Chiếc tàu tiền tuyến ba tầng boong lớn nhất được đóng là chiếc Valmy của Pháp (chắc là để kỷ niệm chiến thắng quyết định của quân đội cách mạng Pháp trước quân đội can thiệp của các nước Châu Âu tại làng Valmy cuối TK 18), ra mắt vào năm 1847. Nó có tumblehome ở bên phải, do đó tăng đáng kể khoảng không gian có sẵn cho các khẩu đội pháo ở bên trên, nhưng giảm sự ổn định của tàu, những bộ phận tạo sự ổn định bằng gỗ được thêm vào dưới mực nước để giải quyết vấn đề này. Valmy được phân loại có thể là tàu buồm lớn nhất, và những lớp tầu buồm lớn hơn có thể thực hiện các vận động uyển chuyển của bằng buồm là không thực tế với chỉ bằng sức lực của con người. Nó tham gia vào cuộc chiến tranh Crimean, và sau khi quay trở Pháp nó nằm ở Học viện Hải quân Pháp dưới cái tên Borda 1864-1890.

Động cơ hơi nước

Thay đổi quan trọng đầu tiên về khái niệm của tàu là sự ứng dụng của động cơ hơi nước như là một hệ thống đẩy phụ trợ. Việc ứng dụng vào mục đích quân sự đầu tiên của tầu hơi nước là trong thập niên 1810, và trong thập niên 1820 một số thử nghiệm với tàu chiến hải quân paddle steamer (tầu bánh xe hơi nước). Sự lan tỏa của ứng dụng này trong những năm 1830, với việc các tàu chiến paddle-steamer tham gia vào các cuộc xung đột như Chiến tranh Nha phiến đầu tiên cùng với các tàu tiền tuyến và các tàu khu trục.

Các tầu kiểu paddle steamer, tuy nhiên lại có bất lợi lớn. chiếc bánh xe ở trên mực nước dễ trúng đạn của đối phương, trong khi chính nó ngăn chặn chính tàu của mình trong việc sử dụng pháo mạn một cách hiệu quả. Trong thập niên 1840, chân vịt hình cánh quạt trở nên như là phương pháp có khả năng nhất cho động cơ hơi nước, cả Anh và Mỹ hạ thủy các tàu chiến có chân vịt hình cánh quạt năm 1843. Qua các thập niên 1840, hải quân Anh và Pháp hạ thủy nhiều hơn nữa các tầu chiến chân vịt hình cánh quạt lớn hơn và mạnh hơn , bên cạnh những tầu tiền tuyến cơ động bằng buồm. Năm 1845, Viscount

Palmerston có chỉ rõ vai trò của tầu hơi nước đã tạo căng thẳng mới trong quan hệ Anh-Pháp, mô tả English Channel như là một cây cầu hơi nước, hơn là một rào cản để ngăn chặn cuộc xâm lược từ Pháp. Cũng là một phần vì những lo sợ về chiến tranh với Pháp mà Hải quân Hoàng gia đã chuyển đổi một số tàu lớp 74 súng cũ thành lớp tầu hơi nước 60 súng blockship từ năm 1845. Các blockship (ban đầu được hình thành như những khẩu đội pháo động cơ hơi nước chỉ duy nhất cho việc bảo vệ bến cảng, trong tháng chín năm 1845 chúng bị giảm buồm đi chứ không phải là bỏ tất cả, để làm cho chúng thành tầu đi biển …. Các tầu blockship có một hiệu quả thử nghiệm giá trị lớn đồng thời tiết kiệm chi phí.). Chúng sau đó vẫn phục vụ tốt trong Chiến tranh Krym.

Tuy nhiên Hải quân Pháp, phát triển với mục đích chế tạo tàu chiến hơi nước đầu tiên với chiếc Lê Napoléon 90 súng vào năm 1850. Nó cũng được xem là chiếc tàu chiến hơi nước thực sự, và hơn bao giờ nó là tàu chiến chân vịt hình cánh quạt đầu tiên. Napoléon được trang bị như là một tàu tiền tuyến thường, nhưng động cơ hơi nước của nó có thể cung cấp cho một tốc độ 12 knots (22 km / h), mà không phụ thuộc vào điều kiện gió-một lợi thế tiềm năng quyết định trong một trận hải chiến.
Tám chị em của chiếc Lê Napoléon được chế tạo tại Pháp trong một khoảng mười năm, nhưng Anh sớm dẫn đầu trong việc sản xuất, trong số cả hai mục đích đóng mới và chuyển đổi thành tầu hơi nước. Nhìn chung, Pháp đóng 10 thiết giáp hạm hơi nước mới bằng gỗ và chuyển đổi từ 28 chiếc tàu chiến cũ hơn, trong khi Anh Quốc đóng 18 và chuyển đổi 41 chiếc.


Tranh vẽ chiếc Lê Napoléon của Hải quân Pháp

Cuối cùng, Pháp và Anh là hai quốc gia duy nhất có phát triển đội tàu chân vịt hình cánh quạt gỗ động cơ hơi nước, mặc dù một số cường quốc hàng hải khác thực hiện một số sử dụng một số hỗn hợp của tàu chân vịt hình cánh quạt và các tàu khu trục paddle-steamer. Những quốc gia này bao gồm Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Napoli, Phổ, Đan Mạch, và Áo.

Sự thoái trào của tầu tiền tuyến

Việc đưa vào sử dụng súng bắn đạn nổ trong thập niên 1820 đã tiên đoán kết cục của tất cả các tàu chiến bằng gỗ. Việc một hải đội Thổ Nhĩ Kỳ bị tiêu diệt tại Sinope năm 1853 bởi các tàu chiến bắn đạn nổ của Nga chỉ ra thời kỳ kết thúc của chúng trong các trận hải chiến. Vào giữa thế kỷ 19 các tàu tiền tuyến bằng gỗ được cho là quá lạc hậu so với lớp tàu chiến bọc thép, Một tàu bọc trong các tấm sắt và được đẩy bởi các động cơ hơi nước có khả năng tốt hơn để chọn vị trí của mình trong trận đánh. Sự yếu kém của tàu tiền tuyến bằng gỗ so sới tàu bọc thép đã không được nhận ra đầy đủ cho đến ngày 08 tháng 3 năm 1862, trong ngày đầu tiên của trận Hampton Roads, Khi hai tàu chiến hạng nặng bằng gỗ bị chìm và bị phá hủy bởi chiếc tàu bọc thép CSS Virgini của Liên minh miền Nam. Tuy nhiên sức mạnh ẩn chứa trong tầu tiền tuyến cũng sẽ được tìm thấy ở tầu bọc thép khi chúng phát triển trong vài thập kỷ sau trong khái niệm thiết giáp hạm.


Chiến Đấu

Mặc dù các hạm đội của các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, và Pháp được xây dựng rất lớn, và trong trường hợp của Pháp, ngay cả với tàu tốt hơn, họ ít khi có thể kết hợp được các kỹ năng như của hạm đội hải quân Anh. Thủy thủ đoàn của Anh thì rất xuất sắc, một phần vì họ có nhiều thời gian trên biển hơn, nói chung là được chăm sóc tốt hơn, cũng được đào tạo thuật pháo tốt hơn (cho phép có một tốc độ bắn nhanh hơn), và nói chung là có quyền lực hơn, như Hải quân Hoàng gia căn cứ để thăng thưởng dựa nhiều hơn vào khen hơn là mua bán ( chẳng biết ở ta thì thế nào???). Quân đội Anh thường nhỏ hơn so với so với quân đội của các nước nổi bật tại lục địa, trong khi hải quân hải quân của họ lại có xu thể lớn hơn hải quân của bất kỳ cường quốc lục địa đươn lẻ nào đó ( vì Anh là một quốc đảo nên họ có thể tập trung mọi nguồn lực vào phát triển Hải quân, không như Pháp tập trung phát triển lực lượng bộ quân, đặc biệt là đạo quân vĩ đại thời Napoleon. Còn nếu bảo là phát triển cả hai vào thời đó thì thật là hoang đường).

Trong Bắc Hải và Bắc Đại Tây Dương, Các đội tàu của Vương quốc Anh, Hà Lan, Pháp, và Tây Ban Nha đã chiến đấu với nhau rất nhiều trận trong hỗ trợ của quân đội của họ mặt đất để ngăn chặn sự tiếp cận của đối phương vào các tuyến đường thương mại. Trong biển Baltic, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, và Nga đã làm vậy, trong khi ở các Địa Trung Hải, Nga, Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, Venice, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp đã đánh nhau nhiều trận chí tử để kiểm soát các con đường này.
Trong các cuộc chiến tranh thời Napoleon, Anh đã đánh bại các cường quốc Hải quân của châu Âu ở trận đánh như Copenhagen, Cape St Vincent, Aboukir ( trận sông Nile), và Trafalgar (các bài viết sau em xin phép đi sâu vào từng trận), cho phép Hải quân Hoàng gia thiết lập một sức mạnh hải quân hàng đầu của thế giới. Tây Ban Nha, Đan Mạch, Bồ Đào Nha và phần lớn đã ngừng đóng tàu tiền tuyến trong suốt thời gian bị câu thúc từ Anh. Anh nổi lên từ các cuộc chiến tranh thời Napoleon năm 1815 với lực lượng hải quân lớn nhất và chuyên nghiệp nhất trên thế giới, bao gồm hàng trăm tàu thuyền gỗ dùng động cơ buồm với tất cả các lớp và các kích cỡ. Hải quân Hoàng gia đã hoàn thành uy quyền của hải quân trên toàn thế giới sau chiến tranh Napoleon, và nó đã chứng tỏ ưu thế này trong Chiến tranh Krym trong những năm 1850.

Tuy nhiên, chiến tranh Napoleon, cũng như chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ năm 1812, đã cho thấy những thiếu sót của tàu tiền tuyến khi kẻ thù tìm đến các chiến thuật bao gồm cả việc sử dụng quy mô lớn các tầu cướp biển. Cả Pháp và Mỹ đã chứng minh một tầu nhỏ, vũ trang nhẹ, nhưng nhanh nhẹn, và đặc biệt có thể là những tàu như lớp sloop và schooner, chúng có thể lan trên khắp các đại dương, hoạt động đơn lẻ hoặc theo nhóm nhỏ. Chúng nhắm vào và tiêu diệt các thương thuyền vận tải, đây là huyết mạch kinh tế của Anh Quốc, mà tàu tiền tuyến lại quá ít, quá chậm, và quá vụng về để chống lại chúng. Áp đảo về hỏa lực sẽ không được sử dụng nếu nó không được mang theo( thì không thể hộ tống được tất cả các đoàn convoy đúng không ạ), phản ứng đầu tiên của Hải quân Hoàng gia đến các tầu cướp biển của Napoléon, các tầu này phần lớn xuất phát và hoạt động từ các lãnh thổ thuộc Tân Thế giới của Pháp, ( Anh ) là mua Bermuda sloop. Tương tự, tàu buôn vũ trang của công ty Đông Ấn đã trở thành nhẹ và khá có chất lượng trong chiến đấu trong thời gian này, chúng điều hành một hệ thống theo một đoàn tầu buôn vũ trang, thay vì phụ thuộc vào số lượng nhỏ của tàu có vũ khí mạnh hơn.

MTA (st)

Không có nhận xét nào: