30/9/15

Trung thu này chị Hằng đã sang sông...

Tham gia phá cỗ với bọn trẻ con và cả với các bậc thi nhân đang thả thơ ngắm nguyệt vào dịp Trung Thu này, MTA bỗng giật mình. Trông chị Hằng vẫn e ấp trong sương mơ khi lung linh chiếu sáng, nhưng dường như có điều chi khang khác trước. Trông chị tròn trịa hơn, đẫy đà hơn và đàn bà hơn với nụ cười tươi như hoa Thài Lài...


Thôi rồi. Chị Hằng hẳn đã thất tiết, và lên xe hoa về Dinh với ai đó rồi. Chuyện ni lạ nhưng không bất ngờ. Vì dù gì thì chị cũng là phận gái, cũng đến lúc phải đi "chống lầy" bỏ cuộc chơi chứ không lẽ cứ chường mặt ra để cho thiên hạ ngắm chùa ? Chơi hoài bao năm rồi thì cũng đã đến lúc phải lo chuyện kiếm một tấm chồng, rồi sanh con đẻ cái nối  dõi tông đường họ nhà Trăng chứ. Không lẽ cứ ở vậy vò võ cắm sào đợi giai mãi ? Con gái có lứa có thì, mà chị thì đã đợi cả triệu năm rồi, ế vẫn hoàn ế nên có thể vừa rồi có cơ hội đầu tiên thì chị chụp liền :

Lấy chồng thì phải lấy liền tay..

Nhưng lấy ai ? Ai là kẻ may mắn được một người con gái nổi tiếng, vừa đẹp vừa ngoan như chị Hằng lấy làm chồng để sửa túi nâng khăn.

Thì chú Cuội chớ còn ai trồng khoai đất này. Bao năm qua thì ch  hú ấy phải lớn lên, phải trưởng thành ra dáng của một người đàn ông chớ không lẽ cứ làm một chú trẻ trâu thổi sáo bên gốc đa như một thằng ngốc mãi. Và chú cũng ra dáng một chàng Gien tơ mân, phong lưu mã thượng thì mới được người đẹp lạnh lùng như chị Hằng kết làm chồng chứ. 

Mà cũng có ai đâu ngoài chú Cuội để chị Hằng chọn lựa, ngược lại thì cũng có giai nhân nào để chú Cuội kén cá chọn canh. Ở nơi đó đúng là nơi chỉ để dành cho 2 người, với tình yêu chân chính, không có phản bội hay ghen tuông. 

Như lửa gần rơm, họ đến với nhau là điều hoàn toàn tự nhiên như bà Eva và ông Adong thuở hồng hoang của trái đất vậy. Anh chị đã ăn cơm trước kẻng hay sau kẻng, chị Hằng bị mất trinh ngày hôm qua hay một triệu năm trước thì có gì khác nhau đâu.  Chỉ biết rằng giờ đây cả hai anh chị đang hạnh phúc lắm ở nơi ấy. Nhưng chắc chắn chị Hằng sẽ không theo chồng bỏ cuộc chơi. Chị vẫn là chị Hằng, là ông Giẳng, ông Giăng của nhi đồng và là thi hứng muôn đời cho các nhà thơ. Sau tuần trăng mật thì cặp đôi hạnh phúc này sẽ lại trở lại với nghề người mẫu không công cho chúng ta ngắm, như đã làm nhiều triệu năm rồi.

Nhân dịp Trung Thu về, xin được chúc  mừng Tân lang Văn Cuội và Tân giai nhân Thị Hằng...

MTA

28/9/15

Viết Tâm Kinh trên cơ thể phụ nữ đẹp khỏa thân

Tâm kinh và Thư pháp 

Thư pháp Á Đông (chữ Hán: 書法亞東) là nghệ thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách khác nhau. 

Nhân thể dữ tâm kinh (人体与心泾)

Thư pháp Á Đông (chữ Hán: 書法亞東) là nghệ thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về đường nét, cách thức thể hiện.



Chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về thư pháp chữ Hán và thư pháp Á Đông nói chung, trước khi tìm hiểu về nghệ thuật Thư pháp “Nhân thể dữ tâm kinh”, là thư pháp được viết trên những vùng nhạy cảm của phụ nữ, có lẽ khởi nguồn từ Trung Hoa.

Thư pháp Á Đông (chữ Hán: 書法亞東) là nghệ thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về đường nét, cách thức thể hiện.

Người Trung Quốc cho rằng Lý Tư, thừa tướng của triều đình nhà Tần, là người khởi đầu cho nghệ thuật thư pháp vì ông là người được giao việc thực hiện cải cách và thống nhất văn tự sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước nhỏ khác đưa Trung Quốc trở thành một quốc gia thống nhất. Trải qua các triều đại sau đó, sử sách đều có ghi nhận về sự xuất hiện của những thư pháp gia nổi tiếng, như Vương Hy Chi đời Đông Tấn hay Tề Bạch Thạch đời nhà Thanh.

Tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm thư pháp thường bao gồm nhiều yếu tố rất khắt khe như điểm hoạch là đường nét, kết thể là bố cục, thần vận là cái hồn của tác phẩm... Cùng với sự xâm lược và đồng hoá của văn hoá các triều đại Trung Quốc trong một khoảng thời gian dài, môn nghệ thuật này cũng trở nên phổ biến tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Có lẽ cao siêu hơn mấy bậc lại là Tâm kinh và Thư pháp trên cơ thể mà là phụ nữ đẹp lõa thể.

Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh là một trong những bộ kinh căn bản và phổ thông nhất của Phật giáo Đại thừa. Hầu như bất kỳ một buổi tụng kinh nào cũng được kết thúc bởi bài kinh này. Nó phổ biến đến nỗi hầu như ai đã từng đi chùa tụng kinh thì đều biết và thuộc, ít nhất là một đoạn.

Bài kinh này là một trong các bài kinh của bộ Bát nhã kết tập tại Ấn Độ từ năm 100 TCN. Ban đầu, bài kinh được ghi bằng tiếng Phạn, khi truyền qua Trung Quốc thì được dịch sang tiếng Hán. Bài thơ – hay đúng hơn là bài kinh – được viết trên cơ thể của cô gái chính là bài Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh được viết bằng Hán tự, theo bản dịch của ngài Huyền Trang.

Bài kinh chi vỏn vẹn có 260 chữ nhưng được xem là 1 trong những pháp môn tu quán chiếu để đi đến giác ngộ của những người tu học Phật.

Do đó, sự ảo diệu bên trong bài kinh thì không có gì để nghi ngờ. Tuy nhiên, sự ảo diệu ấy không phải ai cũng biết. Biết và hiểu thì lại càng ít. Hiểu rồi làm được lại càng ít hơn.

Trong tiểu thuyết Thiên long Bát bộ của Kim Dung, chàng Hư Trúc khi ở trong hầm băng cùng Thiên Sơn Đồng lão, bị bà ép ăn thịt, uống rượu rồi ngủ cùng ‘Mộng cô’, câu niệm cửa miệng của nhà sư trẻ này là câu “sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức thị không, không tức thị sắc ; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị” (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng là như vậy).

Hư Trúc đã đọc câu kinh được xem là thâm ảo nhất trong bài kinh Bát nhã này.

Theo quan niệm Phật giáo, sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi là năm uẩn (ngũ uẩn). Năm uẩn tập họp lại mà thành thì gọi là chúng sanh, hay con người.

Nói dễ hiểu, theo ngôn ngữ hiện đại, sắc là cơ thể, thọ là cảm nhận, tưởng là mong muốn, hành là làm, thức là biết. Trong năm uẩn này, sắc thuộc về thực thể, là thân, là xác. Bốn uẩn còn lại thuộc về tâm, là ý, là ham muốn. Vì vậy khi nằm kề ‘Mộng cô’, để tránh cám dỗ của thân xác phụ nữ, chàng Hư Trúc luôn tự nhủ rằng : sắc uẩn, hay thân xác cô nương kề bên, vốn là không thực, rồi sẽ khô cằn, già héo, tan biến theo quy luật thời gian. Biết là vậy, nhưng cảm nhận xác thịt thì lại khác, nó xui khiến chàng trai trẻ chưa biết gì có những hành động theo bản năng. Và sau đó …..

Nói dông dài chẳng qua chỉ muốn khẳng định : nói ‘sắc tức thị không’ thì dễ, nhưng gặp cảnh mà coi sắc cũng là không e rằng thì khó lắm.


Trở lại với người viết thư pháp trên cơ thể. Tôi phải công nhận là ý chí, tinh thần ông rất tuyệt vời. Đối với một người viết thư pháp, việc giữ cho tinh thần không xao động, không phân tán bởi các yếu tố bên ngoài là rất quan trọng. Có tịnh thì tâm mới an, nét chữ mới có thần, bố cục mới hài hòa hợp lý. Một khi bút đã chấm mực, tay đã ‘đề’ ‘án’ thì không thể dừng nữa chừng, vì dừng thì bút khí ngưng trệ, tác phẩm coi như bỏ đi. Đó là yêu cầu cơ bản khi chấp bút viết chữ trên giấy, trên vải, trên đá gỗ. Đây ông lại viết trên một thực thể sống, đầy sinh lực. Mỗi nét bút ông kéo lên hay đi xuống là đi cùng nhịp thở, cùng cảm xúc của cô gái. Quả là tâm không động. Người để cho viết tài, người viết lại càng tài. Có lẽ cả hai đều vượt qua cái giới hạn của hình sắc để đạt đến cái độ ‘sắc tức là không’ “vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời mọi cuồng xi mộng tưởng”.

Bộ ảnh ghi lại việc người nghệ sỹ - thư pháp gia viết toàn bộ tác phẩm Tâm kinh trên cơ thể một phụ nữ đầy sức sống:


Có thể tất cả các định nghĩa đều thiếu dấu: sắc
Có thể kho lí luận đương đại đều quên dấu : nặng
Không đủ thuyết phục
Để có thể chấm đôi nhũ hoa nào lên ngôi hoàng hậu và trao vương miện.
Tôi chọn em
say xưa...
Như nhát kiếm xé trời sáng loá
Như mầu mực pha không đủ độ  nồng
Như bút vẽ của kẻ phàm phu bất lực dựng đứng ...trời trồng!
Mĩ thuật nhân loại khánh kiệt trên bầu ngực mĩ nhân.




Cầm bút vẽ như cầm đao
Hội họa trên nguồn hội họa
Phật pháp cao siêu cũng lạ!!!
Rất ngoan trên ngực đàn bà
Trần truồng chỉ là cái cớ
Để đo tâm sáng, tâm tà
Mấy ai người trong thiên hạ
Lắng mình, trước Phật, trước hoa


Câu kinh “Quán tự tại bồ tát” mở đầu tác phẩm từ bên trái, gần tim (tâm kinh mà) xuống ngực rồi được viết dần sang bên phải, đến đùi phải rồi kết thúc bên đùi trái với câu chú “yết đế, yết đế …”

Và rồi cảm thấy như chưa đủ, ông lại khóa tất cả lại bằng một chữ “Phật” thật lớn ở sau lưng.

Toàn triện phía trên, danh ấn phía dưới ; đề từ, lạc khoản ; chữ đen, da trắng, triện son đỏ, nhìn thực mà không tục, trần trụi mà không dâm dục, đúng thư pháp, đúng nghệ thuật.

Trong chữ có pháp, trong hình có ý đọc ‘sắc’ ‘không’ trên thân trần sắc mới thấy cái ảo diệu của Tâm kinh và cái đẹp của thư pháp vậy.












Ngọc thể lưu Hán tự
Lõa thể dịch tâm kinh
Mặc nhiên nhi nữ tỉnh
Mỹ thuật kiến thất kinh

Thùy Trâm - Người Sưu Tầm

© VAOL

26/9/15

Nguồn gốc hội Tam điểm

Thomas Paine
Người dịch: Hà Hữu Nga
druids

“Hội Tam điểm bắt nguồn từ một tôn giáo rất cổ, hoàn toàn độc lập và không liên hệ gì với Kinh thánh cả. Hội Tam điểm bắt nguồn và là di duệ từ tôn giáo của người Druids cổ đại…Thiên chúa giáo và Tam điểm có một nguồn gốc chung: Cả hai đều bắt nguồn từ tục thờ cúng thần mặt trời.”
Người ta vẫn cho rằng những người Tam điểm có một bí mật mà họ luôn che giấu, nhưng với bất cứ thứ gì có thể thu thập được từ sự giải thích của họ về Hội Tam điểm, thì bí mật thực sự của họ không có gì hơn là nguồn gốc của nó, mà chỉ có ít người được biết, trong khi đó những người này lại giữ kín như bưng. Những người Tam điểm được chia thành ba hạng hoặc ba cấp. Thứ nhất là những người Đăng ký Tập sự, Thứ hai là Hội viên Chính thức; Thứ ba là Đạo sư.
 Người Tập sự chỉ biết chút ít về Hội trong việc sử dụng các ký hiệu và các dấu hiệu cùng với một số thao tác, một số từ ngữ để hội viên nhận ra nhau, nhưng người ngoài không thể biết được. Hội viên chính thức cũng không được chỉ dẫn nhiều hơn bao nhiêu so với các hội viên tập sự. Ngay cả trong khi đã là thành viên cao cấp của Hội thì mọi chi tiết còn lại về nguồn gốc của nó cũng vẫn phải được giữ kín.
Năm 1730, Samuel Pritchard, thành viên sáng lập Hội ở Anh đã công bố một chuyên luận nhan đề là Hội Tam điểm bị chia rẽ, và đã tuyên thệ trước thị trưởng London rằng đó thực ra chỉ là một bản sao mà thôi. “Samuel Pritchard tuyên thệ rằng bản sao đính kèm ở đây là một bản sao thực sự, chính cống trong từng chi tiết của nó”.
Trong công trình của mình ông đã đưa ra một loạt câu hỏi và câu trả lời về những hội viên tập sự, hội viên chính thức và hội viên cao cấp. Không có khó khăn gì trong công việc này, bởi vì đó chỉ là thể thức.
Trong lời giới thiệu của mình, ông nói “cơ sở ban đầu của Hội Tam điểm bao gồm nền tảng các khoa học và các loại hình nghệ thuật tự do, nhưng đặc biệt hơn cả là trong hình học, vì trong công trình xây dựng tòa tháp Babel, nghệ thuật và bí mật của Hội Tam điểm đã được đưa vào đầu tiên, sau đó được truyền qua Euclid [người Hy Lạp], một nhà toán học thượng thặng của Ai Cập; ông đã truyền nó cho Hiram, một bậc đạo sư Tam điểm liên quan đến việc xây đền Salomon ở Jerusalem”.
Bên cạnh cái điều ngớ ngẩn về câu truyện truyền thừa Tam điểm từ công trình xây dựng tháp Babel, nơi mà theo tích truyện thì sự hỗn độn về ngôn ngữ đã cản trở những người xây dựng hiểu nhau, vì vậy mà những tri thức truyền lại cũng hỗn độn, đã chứa đựng một mâu thuẫn hiển nhiên về niên đại mà ông đưa ra.
Ngôi đền Salomon được xây dựng và hoàn thành 1004 năm trước kỷ nguyên Thiên chúa, và Euclid, như mọi người đều biết chỉ sống trước mốc khởi đầu kỷ nguyên đó 277 năm. Vì vậy làm sao mà Euclid có thể truyền lại bất cứ cái gì cho Hiram, vì ông đã sống muộn hơn đến tận 700 năm sau thời Hiram.
Năm 1783, đại úy George Smith, thanh tra của Viện Hàn lâm Hoàng gia Pháo binh ở Woolwich, nước Anh và Đại Đạo sư của Hội Tam điểm hạt Kent đã công bố một chuyên luận nhan đề Việc sử dụng và Lạm dụng Hội Tam điểm.
Trong chương Niên đại Hội Tam điểm, ông đã xác định thời gian ngang với khi vị kiến trúc sư tối cao đưa ra những nguyên lý của Hội và điều khiển môn khoa học bậc thầy là hình học để “sắp xếp thế giới và điều hành nó bằng những quy luật mà toàn bộ cái hệ thống kỳ vĩ không sai sót đến từng chi tiết kia đang vận hành quanh mặt trời trung tâm”.
“Nhưng, ông tiếp tục, tôi lại không được tự do để mở toang cái bức màn bao phủ và để bàn luận cởi mở về đề tài này; nó là thiêng liêng, và mãi mãi vẫn như vậy; những ai được hưởng niềm vinh quang của chân lý thì đều không để lộ nó; và những ai không hề biết gì về nó thì cũng không phản bội nó”. Với đoạn văn này, Smith muốn nói với hai cấp thấp hơn – những người tập sự và các hội viên chính thức – “Không phải bất cứ ai được kết nạp một cách công khai vào Hội Tam điểm thì cũng đều được trao cho mọi bí mật của nó; những bí mật ấy không dễ có được như lấy một đồ vật, nhưng cũng không phải là không thể nào biết được”.
Là một người được học hành, nhưng không may tiến sĩ Dodd, Đại đạo sư Hội Tam điểm trong bài diễn thuyết tại Trụ sở Hội ở London đã truy tìm nguồn gốc Hội Tam điểm qua một số giai đoạn khác nhau. Ông nói rằng các hội viên biết rất rõ từ những thông tin cá nhân, nội bộ rằng thời gian xây dựng ngôi đền Salomon là một kỷ nguyên trọng đại, đó là khởi đầu của nhiều huyền bí nghệ thuật của nó. “Hiện giờ mọi người đều nhớ rõ rằng sự kiện vĩ đại này đã xảy ra trên 1000 năm trước kỷ nguyên Thiên chúa, có nghĩa là hơn một thế kỷ trước Homer, nhà thơ số một trong các nhà thơ Hy Lạp, và trên 5 thế kỷ trước khi Pythagoras đưa về từ phương Đông cái hệ thống siêu phàm về tri thức Tam điểm thực sự để soi sáng thế giới phương Tây của chúng ta…
Nhưng không thể định niên đại của chúng ta xa đến độ ấy. Vì cho dù nó có mắc nợ nhà vua vinh quang và sáng suốt của Israel một số hình thức huyền bí và nghi lễ chữ tượng hình, nhưng chắc chắn là nghệ thuật phải đồng hành cùng con người, chủ thể vĩ đại của nó. Chúng ta tìm kiếm những vết chân trong những khoảng cách xa xôi, từ những thời đại và những dân tộc quá xa xôi. Chúng ta tìm nó trong những con người văn minh đầu tiên và chói lọi nhất từ phương Đông. Chúng ta suy diễn ra nó từ những nhà thiên văn đầu tiên trên vùng đồng bằng Chaldea cho đến những vị vua trí tuệ huyền thoại và những Pháp sư Ai Cập, những hiền triết Hy Lạp, và các nhà thông thái La Mã”.
Từ những thông báo và tuyên bố ấy của các hội viên cao cấp nhất trong hệ thống Tam điểm, chúng ta thấy rằng Hội Tam điểm, dù không tuyên bố công khai, nhưng vẫn đặt cơ sở luận thuyết trên một sự trao truyền thần thánh nào đó từ Tạo hóa, theo cách khác với và không liên quan tới cuốn sách mà những người Công giáo gọi là Kinh thánh, và rất tự nhiên là Hội Tam điểm bắt nguồn từ một tôn giáo nào đó rất cổ, hoàn toàn độc lập và không liên hệ gì với Kinh thánh cả.
Về vấn đề này, Hội Tam điểm (tôi sẽ chỉ ra thông qua tập quán, nghi lễ, hình tượng và trật tự niên đại) là bắt nguồn và là di duệ từ tôn giáo của người Druids cổ đại. Giống như người Magi ở Ba Tư và các thầy tư tế Heliopolis ở Ai Cập, họ đều thờ Mặt trời. Họ thờ phụng nguồn ánh sáng vĩ đại này như một tác nhân hữu hình vĩ đại của một nguyên nhân đầu tiên vô hình vĩ đại đã được họ tạo thành phong cách. “Thời gian là vô hạn” [Ghi chú: Zarvan-Akarana. Sự nhân cách hóa tính vô hạn của thời gian, cho dù một phần của thần học Ba Tư, dường như là một tín điều độc thần muộn về sau, dựa vào sự cải biên tác phẩm Zendaveta. Xem: Tôn giáo Ba Tư của Haug].
Thiên chúa giáo và Tam điểm có một nguồn gốc chung: Cả hai đều bắt nguồn từ tục thờ cúng thần mặt trời. Sự khác nhau trong nguồn gốc của chúng là Thiên chúa giáo bắt chước tục thờ thần mặt trời bằng cách đặt người đàn ông mà họ gọi là Christ vào vị trí của Mặt trời, và sùng bái ông ta như mặt trời, điều này tôi đã chỉ ra trong chương về Thiên chúa giáo. [Ghi chú: Đây là phần không được công bố trong công trình của tác giả do bà Bonneville xuất bản năm 1810].
Trong Hội Tam điểm, nhiều nghi lễ của các giáo sỹ Druids đã được gìn giữ một cách nguyên vẹn, chí ít là không có sự bắt chước nào. Với họ, mặt trời vẫn là mặt trời, và trong trí tưởng tượng của một người Tam điểm thì hình ảnh Mặt trời là biểu tượng của trang phục và của những thủ lĩnh Hội Tam điểm. Mặt trời là hình tượng trung tâm trên chiếc áo lễ và đó cũng là biểu hiệu trên ngực của các thủ lĩnh Tam điểm cũng như biểu hiệu trong các đám rước tôn giáo của nó. Có hình tượng của một người đàn ông ở trên đầu mặt trời y như Christ vẫn luôn luôn được thể hiện.
Cho đến bây giờ, trong cái mê cung của thời gian, người ta không thể biết được vào giai đoạn nào, dân tộc nào đã sáng tạo ra tôn giáo này. Người ta quy một cách chung chung vào tôn giáo của người Ai Cập, người Ba Tư và người Chaldea, và quy giản vào cái hệ thống của Zoroaster – người làm luật Ba Tư – quy định sự vận hành của mặt trời qua 12 cung Hoàng đạo để rồi Pythagoras đã đem nó vào Hy Lạp. Đó là theo khảo sát trong diễn ngôn của Tiến sỹ Dodd. Tục thờ thần Mặt trời với tư cách là tác nhân vĩ đại hữu hình của một nguyên nhân đầu tiên vô hình, “Thời gian vô hạn” đã lan truyền ý tưởng này trên những vùng rộng lớn của châu Á và châu Phi, để rồi lan đến Hy Lạp và La Mã, rồi qua những người Gaul mà vào Anh và Ireland.
Trong chương niên đại Tam điểm ở Anh, Smith đã nói rằng: Không chấp nhận tính chất mập mờ bao phủ lịch sử Hội Tam điểm trong đất nước này, nhiều nghi lễ khác nhau đã đóng góp vào việc chứng minh rằng Hội Tam điểm được đưa vào Anh khoảng 1030 năm trước Thiên chúa. “Đó không thể là Hội Tam điểm trong trạng thái hiện thời mà Smith đã nói đến. Số lượng các đạo sư đã rất phát triển tại Anh vào giai đoạn mà Smith đề cập đến, và chính Hội Tam điểm Anh đã khởi nguồn từ họ. Smith đã đặt đứa con vào vị trí của người cha”.
Đôi khi trong các bài viết hoặc trong lúc chuyện trò cũng xảy ra một điều là người ta lỡ để lộ ra điều mà họ định giấu kín, và đây chính là trường hợp của Smith, vì cũng trong chương đó, ông nói: “Các giáo sỹ Druids khi định viết một điều gì đó đều sử dụng tiếng Hy Lạp, còn tôi thì đánh bạo để nói rằng những di duệ hoàn hảo nhất của các nghi lễ Druids vẫn được giữ gìn trong các phong tục, các nghi lễ của những người Tam điểm, những con người vẫn tồn tại giữa loài người” “Đạo hữu của tôi, ông nói, có thể vạch ra lịch sử các nghi lễ phong tục đó chính xác hơn tôi để giải thích với công chúng”.     
Khi nghiên cứu và nghiền ngẫm về Đấng Tạo hóa qua các công trình sáng tạo thì mặt trời, với tư cách là một thực thể hữu hình tồn tại chính là đối tượng hữu hình của sự sùng bái của những người Druids; toàn bộ các nghi thức và nghi lễ tôn giáo của họ đều quy chiếu vào chu trình của mặt trời thông qua 12 cung Hoàng đạo và tác động của mặt trời xuống trái đất. Những người Tam điểm cũng chấp nhận các thực tế đó. Mái đền và Hội phòng của họ đều được trang trí bằng một mặt trời, còn trên nền thì là biểu trưng khuôn mặt sặc sỡ của trái đất được làm bằng các tấm thảm hoặc nghệ thuật khảm.
Đại sảnh đường Tam điểm ở phố Great Queen, Lincoln, London là một công trình xây dựng huy hoàng và trị giá lên đến 12000 bảng sterling. Khi nói về công trình này Smith cho biết “Mái của Đại sảnh đường lộng lẫy này là một tột đỉnh kiệt tác kiến trúc ở châu Âu. Trung tâm Thánh đường là một mặt trời rực rỡ nhất được mạ vàng, vây quanh bằng 12 cung Hoàng đạo* với những dòng chữ thiêng liêng:
Aries Libra
Taurus Scorpio
Gemini Sagittarius
Cancer Capricorns
Leo Aquarius
Virgo Pices
Sau những dòng miêu tả đó, ông nói: “Ý nghĩa biểu trưng của mặt trời mọi người Tam điểm ham học và sáng láng đều biết rất rõ; và vì có một mặt trời thực trong trung tâm của vũ trụ nên mặt trời biểu trưng là trung tâm của Hội Tam điểm thực sự. Tất cả chúng ta đều biết rằng, ông tiếp, mặt trời là nguồn sáng, tạo ra các mùa, điều khiển sự tuần hoàn của ngày và đêm, là cha mẹ của vạn vật, là bạn bè của con người; vì vậy nhà khoa học Tam điểm biết một lý do duy nhất là tại sao mặt trời lại được trang hoàng ở trung tâm của Đại sảnh đường lộng lẫy này”.
Để bảo vệ mình khỏi những lời buộc tội của người Thiên chúa giáo, họ đều luôn luôn nói bằng một thái độ huyền bí về hình tượng Mặt trời trong các Hội phòng của họ, hoặc giống như nhà thiên văn học Lalande, một thành viên hội Tam điểm, luôn luôn im lặng về vấn đề này. Đó là bí mật của họ, đặc biệt tại các nước Thiên chúa giáo, vì hình tượng Mặt trời là tiêu chuẩn ý nghĩa chứng tỏ họ là hậu duệ của những người Druids, và cái tôn giáo triết học, khôn ngoan và cao quý ấy là một niềm tin đối lập với niềm tin tăm tối của nhà thờ Thiên chúa giáo [Ghi chú: Câu này bị bỏ trong bản in của bà Bonneville, Người biên tập].
Hội phòng của những người Tam điểm, nếu được xây cho mục đích hội họp thì tương hợp với chuyển động của Mặt trời. Hội phòng luôn được đặt theo hướng Đông – Tây [Ghi chú: Đại hội phòng London mà Paine đã miêu tả một cách chính xác, lại được đặt theo hướng bắc – nam, nhu cầu về không gian là quá mạnh đối với tính chính thống Tam điểm. Dù trên danh nghĩa, là ở phía Đông, nhưng đạo sư lại đứng ở phía nam. Chỗ của đạo sư luôn ở phía đông]. Khi kiểm tra những người tập sự, trong số rất nhiều câu hỏi, Đạo sư hỏi anh ta:
–  Hội phòng quay theo hướng nào?

–  Đông và Tây
–  Tại sao vậy? 
–  Vì tất cả các nhà thờ và nhà nguyện đều phải quay như vậy.
Đây là câu trả lời mang tính nghi vấn, nó không phải là lời đáp cho một câu hỏi. Nó chuyển câu hỏi sang một câu hỏi tiếp theo là tại sao tất cả các nhà thờ và nhà nguyện lại phải làm như vậy? Nhưng vì người tập sự không được thụ giáo các điều huyền bí về gốc tích của Hội Tam điểm là từ các tu sĩ Druids nên anh ta sẽ không bao giờ bị hỏi các câu hỏi buộc phải trả lời trực tiếp dẫn đến cội nguồn của vấn đề.–  Đạo sư đứng ở đâu?

–  Ở phía Đông.
–  Tại sao lại như vậy?
–  Vì mặt trời lặn ở phía Tây và kết thúc một ngày, nên các giám quản đứng ở phía Tây (bàn tay phải của họ chỉ về phía ngực trái, là một dấu hiệu) để đóng cửa Hội phòng và bảo mọi người thôi việc và trả tiền công cho họ.
Tại đây, tên gọi mặt trời được nhắc tới, nhưng người ta thấy rất chính xác rằng nó để chỉ công việc và thời gian tiến hành công việc mà không phải để chỉ bất kỳ nghi thức hoặc nghi lễ tôn giáo nào của các giáo sỹ Druids.
Như tôi đã nói trong chương về Nguồn gốc của Thiên chúa giáo rằng vị trí Đông – Tây của nhà thờ được khai thác từ tục thờ Mặt trời xuất hiện ở phương Đông mà không hề ám chỉ một nhân vật được gọi là Jesus Christ. Những người Thiên chúa không bao giờ chôn người chết ở phía bắc Nhà thờ; [Ghi chú: Nhiều khu vực tại Bắc Âu, phía Bắc được coi là nơi ở của quỉ. Những tội nhân bị hành quyết thì phải chôn ở phía Bắc của Nhà thờ – Biên tập]. Và một Hội phòng Tam điểm luôn có, hoặc được coi là phải có ba cửa sổ được gọi là những ngọn đèn đặt cố định để phân biệt với những ngọn đèn di động là mặt trời và mặt trăng. Đạo sư hỏi người tập sự:
–  Những ngọn đèn cố định được đặt ở đâu?

–  Phương Đông, Tây, và Nam.
–  Để làm gì?
–  Để soi sáng cho mọi người làm và ra về.
–  Tại sao lại không có những ngọn đèn ở phía Bắc?
–  Vì mặt trời không rọi sáng từ phía đó.
Trong số rất nhiều ví dụ, những vấn đáp trên cho thấy rằng Thiên chúa giáo và Tam điểm có một nguồn gốc chung, đó là tục thờ Mặt trời thời cổ đại.
Lễ hội quan trọng nhất của người Tam điểm được gọi là Ngày Thánh John; nhưng mỗi người Tam điểm ngộ đạo đều biết rằng việc tổ chức Lễ hội của họ vào ngày này không liên quan gì đến cái nhân vật được gọi là thánh John kia; đó chỉ là cách để che giấu nguyên nhân thực sự của việc tổ chức Lễ hội của họ. Vì những người Tam điểm, hoặc chí ít là những giáo sĩ Druids đã có trước thời thánh John nhiều thế kỷ, nếu nhân vật ấy đã từng tồn tại thì việc tổ chức Lễ hội của họ vào ngày đó chắc chắn sẽ có nguyên nhân không liên quan gì đến John cả.
Cái được gọi là ngày thánh John ấy là ngày 24 tháng 6 và đó chính là ngày Hạ chí. Lúc đó mặt trời ở xa xích đạo nhất, gọi là ở điểm chí tuyến; trong vài ngày mặt trời ở vị trí đó. Ngày thiên văn dài nhất, giống như ngày thiên văn ngắn nhất, không phải năm nào cũng có, mà chỉ vào những năm nhuận. Nếu tính bằng số thì ngày đó luôn luôn là ngày 24 tháng 6; và vì tôn thờ Mặt trời khi ở đỉnh cao nhất trong bán cầu Bắc của chúng ta nên chẳng hề có cái gì liên quan đến thánh John cả; đó chính là ngày lễ hội của những người Tam điểm, được kế thừa từ những đạo sỹ Druids.
Các tập quán thường sống lâu hơn ký ức về nguồn gốc của chúng, và đây là trường hợp liên quan đến tập quán vẫn còn tồn tại ở Ireland, nơi mà tôn giáo Druids hưng thịnh trong thời gian các tập quán này hưng thịnh ở nước Anh. Vào đêm trước ngày thánh John, tức là đêm trước ngày Hạ chí, những ngọn đèn của người Irish được thắp sáng trên các ngọn đồi. Điều đó có thể chẳng liên quan gì đến thánh John cả; nhưng nó lại mang tính chất biểu trưng cho mặt trời trong ngày đó sẽ ở trên thiên đỉnh của mùa hạ, và cũng có thể trong ngôn ngữ của mọi người điều đó có nghĩa là lên tới đỉnh đồi.    
Còn những gì mà người Tam điểm và các cuốn sách của họ nói với chúng ta về ngôi đền Salomon ở Jerusalem thì điều đó là quá khôn ngoan, vì những lễ thức Tam điểm có thể được bắt nguồn từ việc xây dựng ngôi đền đó, vì tục thờ cúng mặt trời đã được thực hành hàng nhiều thế kỷ trước khi xây dựng ngôi đền, hoặc trước khi người Israeli ra khỏi Ai Cập. Và chúng ta học được từ lịch sử về hai vị vua Do Thái xxii, xxiii để biết được rằng tục thờ cúng mặt trời đã được người Do Thái thực hành trong chính ngôi đền đó. Nhưng cũng rất đáng ngờ nếu nó được làm với mức độ thuần túy khoa học và đạo đức tôn giáo giống hệt với những gì mà các đạo sỹ Druids đã thực hành, trong khi những người Druids này lại đều được giải thích là hậu duệ của những người thờ thần mặt trời ở Do Thái thuộc một giai tầng khôn ngoan, có học và đạo đức.
Ngược lại, người Do Thái lại ngu dốt về thiên văn học và khoa học nói chung, và nếu một tôn giáo được thiết lập trên cơ sở thiên văn học đã rơi vào tay họ thì chắc chắn nó sẽ bị biến đổi. Không thấy trong lịch sử Do Thái, trong kinh thánh hoặc ở đâu đó nói rằng họ chính là những người sáng tạo hoặc đổi mới bất cứ ngành khoa học hoặc nghệ thuật nào. Thậm chí ngay cả việc xây dựng ngôi đền này thì người Do Thái cũng không biết phải làm thế nào để đẽo những cây gỗ cho vuông vắn và lắp ghép lại với nhau từ lúc bắt đầu công trình. Vì thế Salomon đã có nhiệm vụ đến chỗ Hiram, vua của người Tyre (Zidon) để kiếm thợ; “vì người biết (Salomon nói với Hiram, I King v.6) rằng ở nơi chúng tôi không có ai khéo tay đẽo gỗ như người Zidon”.
Chính xác ra thì ngôi đền ấy là của Hiram hơn là của Salomon, và nếu như những người Tam điểm đi tìm nguồn gốc của bất cứ thứ gì từ ngôi đền đó thì có nghĩa là họ đã mang nợ người Zidon chứ không phải người Do Thái. – Nhưng hãy quay trở lại với tục thờ Mặt trời trong ngôi đền này.
Kinh thánh phần Hai Vua xxiii.5, nói rằng: “Và [vua Josiah] đuổi tất cả các thầy tư tế sùng kính…những người đốt trầm hương thờ mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, và toàn bộ chủ trời”. Còn ở câu thơ 11: “Và ngài bỏ hết số ngựa mà các vua Judah dâng lên Mặt trời, đặt ở lối vào Ngôi nhà của Chúa…và thiêu những chiếc xe Mặt trời bằng lửa”; câu thơ 13: “Và những gò đống trước thành Jerusalem về phía bên phải của quả núi sập, nơi Salomon vua của người Israel đã đắp lên cho Ashtoreth, sự ghê tởm những người Zidon (chính là những người đã xây ngôi đền) khiến cho nhà vua để cho nó nhơ bẩn”.
Ngoài ra kinh thánh còn mô tả Josephus đã cho bỏ hết các trang hoàng nào giống như cách trang hoàng Hội phòng của Tam điểm. Ông nói rằng việc xắp đặt một số chỗ ở ngôi đền của người Do Thái là biểu hiện toàn bộ những thứ tự nhiên, đặc biệt là ở những chỗ dễ thấy nhất, đó là mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các cung hoàng đạo, trái đất, các nguyên tố, có nghĩa là hệ thống thế giới ở đó đều là những biểu trưng tài khéo. Rất có thể toàn bộ các biểu trưng này, Josiah vì ngu dốt đã gọi là những thứ đáng tởm của người Zidon [Ghi chú của Paine: Smith khi nói về một Hội phòng đã thổ lộ rằng: Khi Hội phòng được mở ra cho người Tam điểm, thì với anh ta, nó chính là thế giới; trong đó từ những thứ kỳ thú của tự nhiên đã đưa chúng ta tới để trầm tưởng về những cội nguồn vĩ đại và sùng kính vì những công trình hùng vĩ của nó; để rồi từ đó chúng ta thấy cần phải thực hiện những nghĩa vụ xã hội và đạo đức, làm cho con người trở thành những công bộc của vị kiến trúc sư vĩ đại của Thế giới – Tác giả].
Tuy nhiên mọi thứ được rút ra từ ngôi đền này [Paine ghi chú: Có thể là chính xác khi cho rằng cái bộ luật được gọi là luật Moses đã không tồn tại trong thời gian xây dựng ngôi đền].
Ở đây có sự tương đồng của vạn vật trên trời và dưới đất. Và chúng ta đọc được trong phần các vua vi, vii viết rằng: Salomon đã làm ra các thiên thần có cánh tạc trên mọi bức tường của ngôi đền cùng những cây cọ và các bông hoa nở cùng một biển kim loại nấu chảy đặt trên 12 con bò; còn các gờ tường được trang trí bằng sư tử, bò, các thiên thần có cánh: tất cả những thứ đó đều trái với luật Moises  – [Tác giả] và được đưa vào Hội Tam điểm, đều vẫn thuộc về tục thờ Mặt trời, tuy nhiên đã bị người Do Thái làm biến đổi đi hoặc hiểu sai, rồi sau đó những thứ ấy đã được đưa vào tôn giáo của các giáo sỹ Druids.
Một nghi thức khác cho thấy Hội Tam điểm bắt nguồn từ một hệ thống cổ đại nào đó trước và không có quan hệ với Thiên Chúa giáo, là trật tự niên đại hoặc phương pháp tính thời gian được người Tam điểm sử dụng trong các ghi chép về các thủ lĩnh của họ. Họ không sử dụng cái được gọi là kỷ nguyên Thiên chúa, họ tính tháng bằng số giống như những người Ai Cập cổ đại đã làm, và như người Quakers hiện vẫn làm. Bản thân tôi cũng có một ghi chép về một thủ lĩnh tôn giáo Tam điểm Pháp dưới thời Công tước Orlean cuối cùng, tiếp theo là Công tước de Chartres là một Đại đạo sư Tam điểm ở Pháp.
Tư liệu đó bắt đầu như sau: “Le trentieme jour du sixieme mois de l’an de la V.L. cinq mille sept cent soixante treize”; có nghĩa là : Ngày 13 tháng 6 năm Venerable Lodge 5773. Căn cứ vào những gì tôi đọc được trong những cuốn sách Tam điểm bằng tiếng Anh, thì những người Tam điểm Anh sử dụng những chữ đầu viết tắt A.L, chứ không phải là V.L. Với chữ A.L họ có ý nói trong năm ánh sáng giống như người Thiên chúa giáo dùng chữ A.D. có nghĩa là trong năm Chúa Chúng ta.
Nhưng A.L. giống như V.L. đều thuộc vào cùng một trật tự niên đại, tức là thời gian giả định về sự Sáng thế. [Ghi chú : V.L. là những chữ đầu của Vraie Lumiere, Ánh sáng Chân lý; và L.A. là Anne Lucis, Trong năm Ánh sáng. Câu này và ba câu trước (trong văn bản) đã bị cắt bỏ khỏi bản in của bà Bonneville năm 1810 – Biên tập]. Trong chương về nguồn gốc Thiên chúa giáo, tôi đã chỉ ra rằng nguồn gốc vũ trụ, tức là lý giải về Sáng thế mà cuốn Sáng Thế ký đã mở ra, chính là đã được lấy và bị cắt xén từ cuốn Zend-Avesta of Rozoaster, và được chọn làm lời mở đầu cho cuốn Kinh thánh khi những người Do Thái quay trở về sau vụ bị bắt giữ tại Babilon, và những người anh em Robbin của người Do Thái đã không coi lối giải thích trong sách Sáng thế là thật, mà chỉ là những phúng dụ thôi.
Sáu nghìn năm trong sách Zend-Avesta đã bị thay đổi và tự ý thêm vào 6 ngày để lý giải Sáng thế. Những người Tam điểm dường như cũng lựa chọn cùng giai đoạn đó, và có lẽ để tránh sự ngờ vực và qui kết của nhà Thờ, nên đã chấp nhận kỷ nguyên thế giới (Thiên chúa) làm kỷ nguyên Tam điểm. Chữ V.L. của người Tam điểm Pháp và chữ A.L. của Tam điểm Anh là lời đáp đối với chữ A.M. Anno Mundi, năm Thế giới của Thiên chúa giáo.
Dù những người Tam điển có lấy nhiều nghi lễ và các tượng hình của người Ai Cập cổ đại, nhưng chắc chắn là họ không lấy trật tự niên đại của họ, giống như biên niên sử Trung Quốc đã xuất hiện sớm hơn Thiên chúa giáo vài nghìn năm.
Tôn giáo của những người Druids như đã nói, hệt như tôn giáo của người Ai Cập cổ đại. Các tăng lữ Ai Cập là những giáo sư và giảng viên khoa học, và họ có phong cách của Heropolist – thành phố Mặt trời.
Những người Druids ở châu Âu là những người có chung một thứ trật với những tên gọi bằng ngôn ngữ Teuton hoặc German cổ đại. Từ Druid có nghĩa là một người khôn ngoan. [Ghi chú: drud trong tiếng Đức là pháp sư hoặc người có khả năng thiên tài. Hãy so sánh với dòng sau đây của Milton: “Ngôi sao dẫn đường cho các thầy pháp vội vàng với một hương vị thuần khiết”. Từ druid cũng có gốc từ tiếng Hy Lạp, một cây sồi. Trong tiếng Celtic thì deru là cây sồi, và “ndd” là chúa. Trong tiếng Anh deuruidhon là những người rất khôn ngoan. Tiếng Hebrew ‘derussim” là người suy tưởng – Biên tập]. Trong tiếng Ba Tư từ Magi cũng có nghĩa tương tự.
“Ai Cập, Smith nói, là nơi mà chúng ta lấy được rất nhiều điều huyền bí, đã luôn luôn sinh ra một hạng người đặc biệt và đã từng lừng danh hơn tất cả những nước khác vì những cổ ngoạn, tri thức, sự giàu có và màu mỡ của nó. Trong các hệ thống của họ, những vị thần anh hùng chủ yếu của họ, Osiris và Isis, về phương diện thần học là một Thực thể Tối cao, là một Đấng tạo hóa Vũ trụ; và về phương diện vật lý, hai vầng sáng vĩ đại, Mặt trời và Mặt trăng nhờ tác động của chúng, mà toàn bộ tự nhiên được khởi phát” “Các đạo hữu từng trải của Hội [Smith chú thích trang này] biết rất rõ những biểu tượng này đưa lại cho Hội Tam điểm những ái lực nào, và tại sao chúng lại được sử dụng trong toàn bộ các Hội phòng Tam điểm”.
Khi nói về y phục của những người Tam điểm trong các Hội phòng của họ mà một phần của nó chúng ta có thể thấy trong các đám rước công cộng, là một chiếc tạp dề da trắng, ông nói: “Các đạo sỹ Druids mặc màu trắng trong thời gian hiến tế và tại các lễ nghi trọng thể. Các thầy tư tế Osiris của Ai Cập mặc đồ vải trắng màu tuyết. Các thầy tư tế Hy Lạp và hầu hết các vùng khác đều mặc lễ phục trắng. Những người Tam điểm là những người đầu tiên sùng bái một Thượng đế thực thụ đã bắt chước lễ phục của họ, và sử dụng các vật tượng trưng rất trong sáng”.
‘Người Ai Cập, Smith tiếp tục, trong những thời đại lịch sử xa xưa đã tạo ra số lớn các Hội phòng nhưng vẫn giữ kín các bí mật của Hội Tam điểm không cho người ngoài được biết. Những bí mật này không được trao truyền một cách trọn vẹn cho chúng ta vì hạn chế của truyền thống truyền miệng, và phải giữ kín, không cho người lao động, thợ thủ công và những người tập sự được biết, mãi cho đến khi nhờ những hành vi tốt và công việc nghiên cứu lâu dài người ta mới quen dần với hình học và các môn nghệ thuật tự do, nhờ đó mà nâng cao được năng lực của các Đạo sư và các Giám quản, đó là điều rất hiếm hoặc chưa hề xảy ra đối với người Tam điểm Anh.”
Dưới đầu đề Hội Tam điểm, do nhà thiên văn học Lalande viết cho Bách khoa Toàn thư Pháp, tôi chờ đợi một lượng tri thức to lớn của ông về thiên văn học, để phát hiện được nhiều thông tin về nguồn gốc Hội Tam điểm; vì sao lại có mối liên hệ giữa một thể chế với Mặt trời và 12 cung Hoàng đạo, nếu như không có một điều gì đấy trong cái thể chế đó, hoặc từ cội nguồn thiên văn học của nó?
Bất kỳ cái gì được dùng như một tượng hình đều được quy về chủ thể và mục đích sử dụng của nó; và chúng ta sẽ không cho là những người Tam điểm, trong đó có rất nhiều người hiểu biết và là nhà khoa học, lại ngu dốt đến mức sử dụng các dấu hiệu thiên văn không vì một mục đích thiên văn nào cả. Nhưng tôi đã quá thất vọng khi hy vọng vào Lalande. Về nguồn gốc của Hội Tam điểm, ông viết: “L’orgine de la maconnerie se Perd, comme tant d’autres, dans l’obscurite des termps;” Tức là: Nguồn gốc của Hội Tam điểm, giống như nhiều tôn giáo khác đã bị biến mất trong mịt mù thời gian. Khi tĩnh trí lại tôi cho rằng Lalande là một người Tam điểm, và đúng là như vậy. Chính cái chết đã cứu cho ông khỏi tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà những người Tam điểm phải chịu khi phải phơi bày nguồn gốc của họ mà họ đã thề giữ kín.
Có một hội Tam điểm ở Dublin lấy tên Druids; phải nghĩ rằng những người Tam điểm này có lý do cho hành vi đó.
Bây giờ tôi xin đề cập đến lý do bí mật của người Tam điểm. Nguồn gốc tự nhiên của bí mật là nỗi sợ. Khi bất cứ một tôn giáo mới nào cạnh tranh và vượt lên một tôn giáo cũ thì những bậc thầy của cái mới đó trở thành kẻ hành hạ cái cũ. Chúng ta thấy rõ điều này trong tất cả các ví dụ mà lịch sử đã từng trải qua. Khi Hilkiah-thầy tư tế và Shaphan-nhà giáo luật dưới thời vua Josiah đã tìm ra hoặc có ý định tìm kiếm cái giáo luật được gọi là luật Moses thì một ngàn năm sau thời Moses (và có vẻ như luật ấy đã không được thực hành và không được biết đến trước thời Josiah) nhà vua đã thiết lập bộ luật đó thành một tôn giáo quốc gia và bắt toàn bộ các thầy tư tế thờ Mặt trời phải chết.
Khi Thiên chúa giáo thắng thế Do Thái giáo thì toàn bộ những người Do Thái trở thành đối tượng buộc tội trong tất cả các nước Thiên chúa giáo. Khi Tin lành ở Anh thắng thế công giáo La Mã thì nó đã giết chết một cha cố Công giáo La Mã ở Anh. Vì vậy mà khi Thiên chúa giáo thắng thế tôn giáo của người Druids ở Italia, ở xứ Gaul, ở Anh, và ở Ireland cổ đại thì những người Druids trở thành đối tượng phỉ báng. Đó chính là lý do để họ giữ kín bí mật nguồn gốc của họ bằng một giáo luật khắt khe nhất.
Sự an toàn của họ phụ thuộc vào điều đó. Một đạo hữu giả có thể đưa tính mạng của nhiều thành viên Tam điểm đến chỗ hủy diệt; và từ di tích của những người Druids, một thể chế được bảo tồn và tái hiện để tránh cái tên Druids, người ta đã dùng cái tên Mason, nhưng họ thực hành dưới cái tên mới này toàn bộ các nghi lễ và nghi thức của những người Druids.


*Ghi chú: tên gọi 12 cung Hoàng đạo
Aries              cung Bạch dương
Libra              cung Thiên bình
Taurus           cung Kim ngưu
Scorpio          cung Hổ cáp
Gemini           cung Song sinh
Sagittarius      cung Nhân mã
Cancer            cung Con cua
Capricornus     cung Ma kết
Leo                 cung Sư tử
Aquarius         cung Bảo bình
Virgo              cung Xử nữ
Pisces             cung Song ngư
Tác giả: Thomas Paine (1737 – 1809) là một tác giả người Anh sau đó trở thành công dân Mỹ, và là một nhà hoạt động chính trị, một lý thuyết gia chính trị, một nhà thần học, một nhà văn. Ông được coi là một trong những người sáng lập ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 

(nguồn : nghiencuulichsu.net)