30/4/16

MAHATMA GANDHI VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH BẤT BẠO ĐỘNG...


Mahatma Gandhi (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), là anh hùng giải phóng dân tộc Ấn Độ. Ông là người khai sanh ra phương pháp đấu tranh hoà bình bất bạo động, và đã dùng phương pháp này để dẫn dắt dân tộc Ấn Độ của ông chống lại chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ.


Những nguyên tắc bất bạo lực được ông đề xướng có 2 phương cách sau :

Thứ nhất là Chấp trì chân lí (satyāgraha), tạm dịch là Kiên Trì Chân Lý. 

Thứ hai là Bất Bạo Động với những câu nói nổi tiếng :

- Chúng ta đấu tranh hoà bình bất bạo động với kẻ thù bởi chúng ta có chính nghĩa, và bởi chúng ta mạnh hơn kẻ thù.
- Chỉ có kẻ mạnh mới ôn hòa và khoan dung. Kẻ yếu thì không làm được những điều đó.

Chấp Trì Chân Lý (Kiên Trì Lý Tưởng) : Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, chúng ta luôn đặt mình vào thế của người có chính nghĩa, người đúng đắn và kẻ thù của chúng ta luôn là kẻ xấu, thiếu chính nghĩa. Đó là một nguyên tắc bất di bất dịch không bao giờ thay đổi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vì chúng ta có chính nghĩa thì dù khó khăn đến đâu chúng ta cuối cùng cũng chiến thắng. Đấu tranh bất bạo động theo kiểu M. Gangdhi là phải luôn có một niềm tin vững chắc vào chính mình và sự nghiệp của mình và không bao giờ rời bỏ nguyên tắc ấy của mình.

Các lãnh tụ nổi tiếng trên thế giới như Martin Luther King, Nelson Mandela, Đat Lai Lạt Ma, Lech Wałęsa, Aung San Suu Kyi...đều là những đồ đệ trung thành của phương pháp đấu tranh thành công này. Và họ đã giành thắng lợi khi áp dụng triệt để phương pháp này.

Đấu tranh hoà bình bất bạo động là một loạt các hành động phối hợp, đa dạng, rộng khắp với mọi biện pháp có thể trong khuôn khổ không gây bạo loạn hoặc không gây điều ác cũng như phải luôn tuân thủ pháp luận hiện hành nhất có thể. Trong ấy kiên trì thực hiện các hình thức đấu tranh bất bạo động để giành thắng lợi chính trị, thắng lợi của Đảng Phái và thắng lợi trong Quốc Hội, cơ quan quyền lực quan trọng nhất. 

Càng đàn áp, bắt bớ nhiều các lãnh tụ thì càng lợi cho phong trào khi ta luôn có lý do để phản đối nhà cầm quyền. Cọi nhà cầm quyền là đối trọng để trao đổi, thảo luận chứ không phải là kẻ thù. 

Mục tiêu của đấu tranh bất bạo động là đòi hỏi nhân quyền, và các quyền bất khả phân của người dân, đòi từng quyền một như quyền biểu tình, đình công, quyền lập hội, quyền bầu cử và ứng cử tự do, quyền tự do báo chí, tự do tôn giáo..v..v... động như biểu tình, đình công, bãi công, bãi khoá, bãi thị, biểu tình ngồi, biểu tình nằm, ủng hộ các dân oan, dân nghèo, chống bất công, đòi công bằng xã hội...Và khi thời cơ đến sẽ tổ chức một nhóm, một cộng đồng bất tuân dân sự, không nghe lời, không đóng thuế các loại. 

Mục tiêu của đấu tranh bất bạo động là đòi hỏi nhân quyền, và các quyền bất khả phân của người dân, quyền biểu tình, đình công, quyền lập hội, quyền bầu cử và ứng cử tự do, quyền tự do báo chí, tự do tôn giáo..v..v...

Sau khi sự nghiệp thắng lợi, M. Gangdhi đã bị một kẻ cực đoan ám sát chết ngày 30/1/1948. Và ông được coi là một vị Thánh của tất cả người Ấn Độ.

MTA

Những câu danh ngôn của M.Gandhi :
- Chúng ta đấu tranh hòa bình bởi chúng ta là chính nghĩa, và bởi chúng ta nhất định thắng...
- Chiến thắng lớn nhất của hoà bình, bất bạo động là chiến thắng mà không có kẻ thua, mà chỉ có người thắng. Đó là dân tộc...
- Kiên Trì Chân Lý là Chúa và Bất Bạo Động là sợi dây liên hệ với Chúa trong đấu tranh bất bạo động.
- Chỉ cần một vài người lãnh đạo chấp nhận hy sinh và một khối quần chúng đông đảo thì chúng ta sẽ thắng mọi kẻ thù. 
- Kẻ thù của chúng ta dùng súng và bạo lực vì chúng yếu hơn chúng ta. Chúng ta đấu tranh hòa bình vì chúng ta mạnh hơn và chính nghĩa hơn.
- Tha thứ là sức mạnh của chúng ta (Nelson Madenla)

Tôi khóc cho ngư dân tôi...



Tôi khóc cho những ngư dân khi con đường sống của họ bỗng nhiên đứt đoan không còn nữa. Khóc cho những đàn cá chết oan uổng nằm phơi xác bên bờ cát.



Khóc cho dân tôi khi đang bị họa giặc Tàu o ép ở biển Đông, thì giờ thêm họa cá chết không còn nữa, phải sống làm sao đây.

Khóc cho giải miền Trung sao lắm họa chất chồng, khóc cho những đàn cá mênh mông bỗng nhiên bị đầu độc chết giữa ban ngày.

Khóc cho những đoàn tàu đánh cá trống không khi cập bến, khóc cho những bạn chài ngơ ngác không còn muốn ra khơi.

Khóc cho những chàng trai cô gái không dám mở hội nơi bờ cát, khóc cho những em nhỏ không còn được đùa vui nơi ven biển.

Khóc cho biển chết, cho cá chết cùng niềm hy vọng cũng chết.

Khóc khi người dân tôi gào ngàn uất hận, đòi trả lại cho họ biển xanh cùng đàn cá trắng đã ra đi không quay về.

Tôi khóc cho dân tôi khi ánh dương không còn chiếu sáng quê hương, mà vầng trăng cũng đã vội vã đi rồi.

Mẹ cơm chan nước mẳt trông tăm cá,

Con đói ngẩn ngơ đợi bóng thuyền về.

MTA

28/4/16

Vụ cá chết thì Tứ Trụ Triều Đình ở đâu...

Cho đến tận bây giờ, khi vụ cá chết đã kéo dài cả tháng cùng với cú sốc tinh thần nặng nề của người dân Việt thì vẫn không thấy những người lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia lên tiếng gì. Không có một lời, cho dù chỉ là lời an ủi, động viên cho người dân vùng gặp nạn hay cho những dân cả nước đang lo lắng quan tâm.



Ông TBT Đảng Nguyễn Phú Trọng, Ông Chủ Tịch nước Trần Đại Quang, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc và Bà Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân, 4 vị đương kim Tứ Trụ Triều Đình đã im lặng một cách khó hiểu giữa lúc cả nước đang sôi sục lên vì chuyện cá chết hàng loạt và kéo dài, vì vụ việc liên quan đến khu CN Vũng Áng, Hà Tĩnh và Fomosa. Những tưởng với những trọng trách quốc gia được giao phó thì các vị phải tích cực vào cuộc, phải đi đến tận thực địa của sự kiện và sau đó phải tuyên bố sự thật về những gì đang xảy ra. Và đó cũng là những điều mà người dân chúng tôi đang chờ đợi ở những người lãnh đạo mới.

Nhưng thật phũ phàng khi chẳng hề có một lời nói nào của các vị về vụ cá chết cả. Từ Thủ Tướng cho đến Chủ Tịch nước và Quốc Hội đồng loạt im hơi lặng tiếng, cứ như chuyện cá chết này đang xảy ra ở đâu chứ không phải ở miền Trung Việt Nam. Tệ hơn nữa là ông TBT Đảng Nguyễn Phú Trọng đã có một chuyến đi đến Hà Tĩnh, tâm điểm của vụ việc cá chết nhưng rồi ông cũng hòa vào điệu Im Lặng, không nói một lời nào về vụ cá chết. Giống hệt ba vị tứ trụ kia.

Tại sao cả 4 người lãnh đạo cao nhất của quốc gia lại đồng loạt im hơi tắt tiếng khi vụ việc nổ ra và đang gây chấn động tâm can của tất cả người dân. Các vị vừa thề sẽ trung thành với Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam kia mà.

Vậy thì tại sao các vị lại im lặng một cách lạ lùng và đểu giả như thế trước một sự kiện nghiêm trọng liên quan đến cuộc sống của người dân như thế. Không lo lắng gì đến số phận khốn khổ của những người dân trong vùng cá chết hàng loạt, không thèm để ý đến nỗi ưu tư lo sợ của tất cả người dân Việt Nam khác. Phải chăng vì lý do liên quan đến "nước lạ" nên cả 4 vị tứ trụ đã cùng chọn giải pháp an toàn " im lặng là vàng". Cứ mặc kệ cho dân tình kêu than, các vị cứ tịnh khẩu như từ đầu vụ việc đến giờ, như những kẻ hèn đang dùng chiêu hèn để qua ải.

Trốn tránh trách nhiệm như thế, các vị không còn xứng đáng để làm lãnh đạo người dân chúng tôi. Không bao giờ...

MTA

Nhìn lại nền giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến

Tác giả: Blog Huỳnh Minh Tú

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.


Sách giáo khoa thời VNCH

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.
Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.
Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).

1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.

3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH:

1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.

2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân văn.

Giáo dục tiểu học:

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).   Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

SỐ LIỆU GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC
NIÊN HỌCSỐ HỌC SINHSỐ LỚP HỌC
1955400.8658.191
1957717.198[9] 
19601.230.000[9] 
19631.450.67930.123
19641.554.063[10] 
19702.556.00044.104
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.

Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.

Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.

Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).

Giáo dục trung học:

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…
Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

TÊN GỌI NĂM LỚP BẬC TIỂU HỌC
TRƯỚC 1971SAU 1971
lớp nămlớp một
lớp tưlớp hai
lớp balớp ba
lớp nhìlớp tư
lớp nhấtlớp năm

TÊN CÁC LỚP BẬC TRUNG HỌC ĐỆ NHẤT CẤP
lớp đệ thấtlớp sáu
lớp đệ lụclớp bảy
lớp đệ ngũlớp tám
lớp đệ tứlớp chín

TÊN CÁC LỚP TRUNG HỌC ĐỆ NHỊ CẤP
lớp đệ tamlớp mười
lớp đệ nhịlớp 11
lớp đệ nhấtlớp 12


Trung học đệ nhất cấp:

Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.
Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.
Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Trung học đệ nhị cấp:
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.
Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.
Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.

SỐ LIỆU GIÁO DỤC BẬC TRUNG HỌC[8]
NIÊN HỌCSỐ HỌC SINHSỐ LỚP HỌC
195551.465890
1960160.500[9] 
1963264.8664.831
1964291.965[10] 
1970623.0009.069
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.

Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh; và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.

Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).

Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.

Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B'Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ;  tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).

Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề:
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.
Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.

Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.  Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.
Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.
Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).

Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là  Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.
Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
SỐ LIỆU GIÁO DỤC BẬC ĐẠI HỌC:
NIÊN HỌCSỐ SINH VIÊN
1960-6111.708[45]
196216.835[10]
196420.834[10]
1974-75166.475[46]
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).

Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):
VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:

Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):
–  Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa Kỳ:
– Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD).
Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau.   ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).
Từ “ Thạc Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.
Luat Khoa Sai gon
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).
Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.
Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).
Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
25-khach_vieng_truong_01
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.
Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.
Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.
Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục:
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975  viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.
Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu:
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.
Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở  Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Các trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu Trần Thanh Tâm (đờn kìm) Phan Văn Nghị (đờn cò) Trương Văn Đệ (đờn tam) Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ  (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]

Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa cuối sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.
Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
KohoReader
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.


NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.  Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần giáo chức:
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.
Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.
Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.

THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965–1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.

Chứng chỉ Tú tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
Phan_Huy_Quat
Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.
Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.
Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[98]
Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[100]
Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.
Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời  Đệ nhị Cộng hòa.
Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình.

ĐÁNH GIÁ

Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét )

Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở  Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”)
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…“
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê:
“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“
***
(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú

Ngày 30/4 đến và tôi mơ đến một ngày ...

Ngày 30/4 lại đến như một bóng ma, và như trong hơn 40 năm qua, Nó là một ngày chia rẽ dân tộc Việt Nam chúng ta làm hai nửa luôn không bình yên. Hai nửa đối nghịch nhau, hai nửa vui buồn, kẻ hạnh phúc người đau khổ. Và Nó sẽ còn chia rẽ chúng ta không biết đến bao giờ, không biết đến khi nào, và không biết sẽ đi tới đâu...


Nhưng tôi mơ thấy điều đó sắp thay đổi. Cái ngày đó sẽ được chính thức trở thành Ngày Hòa Hợp Dân Tộc, Ngày Xóa Bỏ Hận Thù, Xích Lại Gần Nhau, hay Nối Vòng Tay Lớn. Đã hơn 40 năm trôi qua thì tại sao không bỏ đi, cả từ hai phía những định kiến đã cũ, đã xưa, và đã làm đau lòng một nửa dân tộc Việt Nam chúng ta với những cái tên như ngày Quốc Hận, hay ngày Đại Thắng...

Những cái tên gọi khiên cưỡng đó không còn hợp thời, không còn hợp lòng dân, không còn hợp đạo Ông Bà Tổ Tiên, không còn hợp lẽ Trời Đất nữa khi cuộc chiến đã rời xa quá xa. Những con người chính của những sự kiện đó đã đủ vui mừng và đau khổ nếm trải cái điều lẽ ra không nên xảy ra, và đa số họ cũng đã về với thế giới bên kia với niềm vui và nỗi buồn của họ rồi. Chỉ còn những con người Việt Nam mới không cần biết nhiều, không cần nhớ nhiều mà chỉ cần xây dựng lòng tin, tình yêu thương dân tộc. Họ không cần nhớ nhiều, không cần biết đến điều mà khi nhắc đến thì chỉ có một nửa nước vui, nhưng một nửa nước lại buồn. Họ không cần nhớ nhiều đến cái sự kiện như là một lưỡi gươm thọc sâu vào trái tim của dân tộc và chia nó ra làm hai nửa đẫm máu, như hai quốc gia, hai dân tộc thù định truyền kiếp vậy...

Rất nhiều người trẻ không chọn nơi chốn để sinh ra, nhưng giờ đây, không chính thức thì họ vẫn ở trong một lựa chọn tàn nhẫn. Ở bên này và chống lại bên kia hoặc ngược lại trong cùng một dân tộc VN. Nó cũng giống như nỗi đau như khi ta phải lựa chọn tay phải và bỏ tay trái, và ngược lại. Cũng giống như ta buộc phải chọn giữa cha ta hoặc mẹ ta và bỏ đi người còn lại vậy...

Giờ đây chính là lúc chúng ta phải tự hỏi mình rằng, làm sao mà chúng ta vẫn có thể ăn mừng, làm sao mà vẫn có thể nhở nhơ hạnh phúc cho được khi có đến một nửa đồng bào chúng ta phải sống buồn tủi, đau xót. Làm sao chúng ta có thể hò reo sung sướng khi một nửa đồng bào kia chúng ta phải câm nín, uất hận. Làm sao chúng ta có thể đốt pháo ăn mừng chiến thắng mãi khi một nửa đồng bào của chúng ta phải nghẹn ngào đau đớn đốt những nén nhang tưởng nhớ sự bi tráng của sụp đổ, nước mất nhà tan...

Chúng ta đã thản nhiên làm điều đó hơn 40 năm rồi và kết quả là hố sâu giữa lòng dân tộc chúng ta không bao giờ thu hẹp lại. Tại sao chúng ta không dẹp luôn cái vinh quang đã xưa cũ, cái niềm vui chiến thắng đã lỗi thời ấy đi, để đổi lại có cả Một Nửa Dân Tộc sẽ trở về với Dân Tộc Việt Nam chúng ta ? Tại sao chúng ta không mạnh tay dẹp luôn cái hão huyền của chiến thắng, dẹp luôn cái vinh quang đang ngày một nhạt dần đó đi để lấp đầy cái hố sâu hận thù đó bằng tình đồng bào, nghĩa dân tộc, bằng lòng rộng mở của tình yêu thương, san bằng mọi cách biệt để từ nay cả Dân Tộc Việt Nam chúng ta đều chan hòa niềm vui chung và dịu bớt đi nỗi buồn riêng...

Và ngày 30/4 vẫn là một ngày Lễ Lớn, nhưng không phải để ăn mừng chiến thắng mà là để ăn mừng sự hòa hợp dân tộc, giang san thu về một mối, Bắc Nam sum họp, hòa một màu cờ. Ngày đó sẽ không có diễu binh ầm ĩ sắt thép, không có những đoàn binh rầm rập diễu hành để không nhắc nhớ chuyện cũ mà chỉ có những lễ hội diễu hành Canavan rộn ràng với những cô gái xinh đẹp mang những màu cờ chung, cùng những vòng hoa rực rỡ nhảy múa ca hát. Và ngày đó, tất cả người VN chúng ta sẽ cầm tay nhau, ôm hôn nhau không phân biệt chính kiến. Những con người Việt Nam với tình yêu thương giữa người Việt Nam với người Việt Nam chúng ta.

Đó là giấc mơ của tôi và không chỉ của một mình tôi...

MTA

26/4/16

Cuộc cách mạng mang tên loài hoa.

Đó là cuộc nổi dậy của người dân Việt Nam chống lại chính quyền, đó là sự bùng nổ của một xã hội dân sự đã bị độc tài o ép quá lâu. Tên của loài hoa nào, hoa sen, hoa hồng không quan trọng vì sự ra đi của chính quyền cũ và được  tiếp nối bằng một chính quyền không cộng sản mới là điều quan trọng nhất.


Cuộc cách mạng loài hoa ấy sẽ đến, đến sớm và không thể cưỡng lại được. Mọi sự đã chín mùi và chỉ cần một tia lửa nhỏ sẽ bùng lên một cơn bão lửa của lòng dân sẽ cuốn đi tất cả.

Bởi người dân không thể mãi chấp nhận một xã hội mà như có hai đẳng cấp, với một số nhỏ những người CS đặc quyền đặc lợi,  ăn trên ngồi trốc trong số 90 triệu công dân luôn phải cam chịu thiệt thòi.

Nỗi bất mãn chồng chất, sự căm thù hiển nhiên và càng lúc càng lớn mạnh song song với sự hiểu biết của người dân. Mạng internet bùng nổ, mỗi người dân là một vị quan tòa phán xét, cùng với sự chuyên chở không mệt mỏi Sự Thật đến cho người dân của những người lái đò (lời nhà văn Nguyễn Quang Lập), những chiến sĩ đấu tranh bền bỉ trên mạng sẽ dần cho người dân thấy các quyền của họ. Khi người dân lấy lại các quyền thiêng liêng của mình thì các chính quyền độc tài sẽ không còn đất sống và phải ra đi.

Người đấu tranh dân chủ trong và ngoài nước đều giờ đây cùng chung một quan điểm duy nhất về phương thức đấu tranh. Đó là cuộc đấu tranh hòa bình, bất bạo động. Các đảng phái đối lập cũng đều kêu gọi và thực thi các biện pháp đấu tranh ôn hòa.

Đó là điều hiển nhiên khi các cuộc hoạt động vũ lực nhằm bạo loạn và lật đổ chính quyền đều đã bị triệt phá, các cuộc cách mạng bạo lực đã không diễn ra. Bởi vì thời đại đó đã qua rồi.

Trong một bối cảnh quốc gia an bình như thế này, bất cứ một sự xáo trộn, đảo điên nào cũng đều không được người dân chấp nhận. Một cuộc Cách Mạng long trời lở đất, giống như các cuộc CM của những người CS trước đây đều quá sức chịu đựng của người dân. Hơn nữa thế giới ngày nay không có quốc gia nào ủng hộ cho bất cứ ai cầm súng với cương lĩnh bạo loạn lật đổ chính quyền cả.

Nhưng cuộc cách mạng mang tên các loài hoa, những cuộc cách mạng nhẹ nhàng, êm dịu thì lại rất hợp thời đại, hợp lòng dân vào thời điểm này. Cuộc cách mạng ấy chỉ nhằm vào giai cấp cầm quyền đỉnh cao để thay đổi, chứ không phá vỡ nhiều đến cấu trúc của bộ máy chính quyền các cấp dưới. Đó là sự thay đổi chính trị không có tiếng súng, không có đầu rơi máu chảy. Không ảnh hưởng nhiều đến xã hội hay đảo lộn cuộc sống người dân nói chung.

Thay đổi tầng lớp lãnh đạo đỉnh cao cùng với hệ thống chính trị của họ mới là mục tiêu của cuộc cách mạng mang tên loài hoa. Các hệ thống chính trị, quân sự, CA, AN cũ cũng không phải là đối tượng của CN, và họ sẽ an bình nếu không phạm tội ác chống lại người dân. Chính quyền nhân dân mới sẽ quyết định tội trạng của những người phạm tội thông qua các phiên tòa công bằng, công khai. Nhưng qua các sự kiện sụp đổ của các quốc gia CS ở Đông Âu thì ta thấy hầu như rất ít xảy ra các vụ trả thù, tắm máu.. Và như người ta nói, sau các cuộc cách mạng ấy thì tất cả mọi người vẫn được hưởng lương hưu cùng các chế độ đãi ngộ như trước. Cuộc Cách Mạng mang tên loài hoa này thành công thì sẽ không có kẻ thua, mà tất cả đều chiến thắng trong lòng dân tộc Việt Nam mừng vui khi đã cập bến bờ hạnh phúc.

Chính quyền CS hiện nay cũng đã cảm thấy ngọn lửa của lòng dân đang cháy lên tới đâu rồi. Họ đang tuyệt vọng níu kéo bằng mọi cách để cứu vãn chế độ lỗi thời. Họ trượt dần đến một chế độ mật thám công an trị để đối phó với những người đấu tranh dân chủ. Họ ưu ái và dựa hẳn vào bộ máy công an, an ninh với hơn 300 vị tướng CA. Nhưng tất cả sẽ đều vô ích. Tất cả các quốc gia CS Đông Âu, trừ Rumani, đều đã sụp đổ mau lẹ và các lực lượng CA, AN đều là những người đầu tiên bó giáo qui hàng khi lòng dân đã nổi lửa lên rồi.

Những người dân Việt Nam chúng ta cũng đã dần dần không còn sợ hãi chính quyền nữa. Ta dễ dàng thấy điều đó qua các vụ chống đối cưỡng chế đất đai, các vụ xuống đường vì môi trường sống của họ bị đe dọa đã xảy ra liên tục trên toàn quốc, mà vụ sau lớn hơn vụ trước, năm sau nhiều hơn năm trước. Và đây mới là sự khởi đầu thôi. Khi người dân lấy lại được các quyền cơ bản của họ thì những chính quyền độc tài sẽ phải ra đi. Đó là qui luật của cuộc sống và không thể cưỡng lại được. 

Các hội đoàn, đảng phái dân sự với chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động rất cần thiết cho người dân VN lúc này. Bởi sự lãnh đạo, yểm trợ, tập hợp và đoàn kết lực lượng...của họ là vô cùng cần thiết cho người dân, và tránh được tình trạng manh mún, nhỏ lẻ của các cuộc đấu tranh hiện nay.

Còn chúng ta, để tham gia thúc đẩy tiến trình dân chủ nói trên thì hãy mạnh mẽ tham gia các hội đoàn, các tổ chức xã hội, các tổ chức tôn giáo phi quốc doanh hoặc các đảng phái mà ta biết như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, Việt Tân, Đảng Dân Chủ..v..v... Ở trong các đoàn thể dù công khai hay bí mật, bạn sẽ thấy mình an toàn hơn,  mạnh mẽ hơn và quyết tâm đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp chung.

Đó là con đường duy nhất để đi đến thắng lợi cuối cùng...

MTA

25/4/16

Sự im lặng đáng sợ...


Việc cá chết hàng loạt đã diễn ra nhiều ngày tháng và lan ra khắp miền Trung, khởi đầu từ Vũng Áng, Hà Tĩnh. Đây là một vấn đề nghiêm trọng lần đầu xảy ra cho cộng đồng người Việt Nam, cũng là chuyện có sức thu hút sự chú ý quan tâm của tất cả mọi người.


Nhưng bộ máy công quyền, thay vì phải trả lời cho người dân ngay từ đầu về lý do vì sao cá chết, cũng như những nghi vấn có thể cùng các biện pháp đề phòng thì lại hành động không giống ai. 

Một ông có nhiệm vụ tìm hiểu thì trả lời lãng xẹt rằng không có quyền vào KCN Vũng Áng, cho dù việc đang nước sôi lửa bỏng. Ban lãnh đạo của tỉnh Hà Tĩnh, với vị chủ tịch mới trẻ nhất nước thì cũng hành động đầy bất thường, tắc trách khi tuyên bố rằng ban lãnh đạo đang kiện toàn bộ máy nên không xem xét được việc cá chết hàng loạt. Quả thật anh chủ tịch trẻ nhất cùng ban lãnh đạo Hà Tĩnh đã hành động như những kẻ vô trách nhiệm trước một sự kiện nghiêm trọng đang được cả nước lo lắng theo dõi. 

Nhưng điều đáng trách hơn cả là ở nơi cao cấp nhất. Khi vụ cá chết còn đang nóng hổi thì TBT Nguyễn Phú Trọng đã có một cuộc viếng thăm Hà Tĩnh. Hình ảnh tươi cười của ông cùng đoàn tùy tùng khi thăm Hà Tĩnh cũng khiến cho người dân có sự tin tưởng. TBT Đảng đã đi vào nơi gió bão để giải quyết mối lo hậu họa cho người dân.

Nhưng thực không biết nói sao nữa sau khi thăm Hà Tĩnh xong, ông chỉ nói linh tinh và đặc biệt không có một lời gì về vụ cá chết hàng loạt đang diễn ra, và trung tâm chú ý của dư luận chính là Hà Tĩnh. Ông TBT đã như người ở cung Trăng xuống, không biết gì để nói về vụ cá chết ư ?

Không hẳn vậy. Chắc chắn là ông biết nhiều, biết hết nhưng tại sao ông lại im lặng như vậy. Một sự im lặng đáng sợ của một người ở cương vị lãnh đạo quốc gia. Kèm theo là những sự im lặng của các cấp dưới về một vấn đề quan trọng, liên hệ đến sức khỏe của người dân mà những người lãnh đạo không được quyền im lặng. Họ phải có trách nhiệm thông tin rõ ràng mà họ biết đến cho người dân. 

Nhưng ta nhớ đến ông TBT Trọng này khi Trung Cộng đem giàn khoan Hải Dương 981 sang thềm lục địa để khoan, gây nên một cơn chấn động tâm can người Việt thì ông TBT cũng đã im lặng đáng sợ, không nói một câu một chữ nào về vấn đề giàn khoan đó. Trong khi bình thường thì ông nói rất dài, rất dai về mọi đề tài. Chỉ khi có việc gì, và với ai thì ông mới im lặng như vậy. 

Và sự im lặng đáng sợ lúc này của ông TBT Đảng không gì ngoài chữ hèn và chữ sợ...

MTA

24/4/16

Thống nhất đất nước nhưng không thống nhất được lòng dân…


Đã hơn 40 năm ăn mừng là quá đủ rồi. Chúng ta đâu phải thắng Tây, thắng Tàu đâu mà đã hơn 40 năm đã qua, chúng ta vẫn nổi mãi hồi kèn lạc điệu để tự ca ngợi cái chiến công xưa cũ khi thắng người anh em phía bên kia trận tuyến. 


Mà Than ôi! Đó lại là những người anh em đồng bào máu đỏ da vàng của mình. Đó cũng là người Việt Nam, nói tiếng Việt và cùng lớn lên trong tiếng hời ru, điệu hò tiếng hát của ông bà tổ tiên chung giống như chúng ta. Và họ chiến đấu cũng giống như chúng ta chỉ để bảo vệ mảnh đất hình chữ S này giống như chúng ta. Nếu có một người thắng cuộc thì cũng có một người thua cuộc. Một người hò reo thắng lợi thì một người nghiến răng căm hận. Một người nâng ly mừng thì một người lặng lẽ rơi nước mắt...

Hơn 40 năm qua là gần một đời người và đó là khoảng thời gian mà hận thù với người anh em bên kia trận tuyến phải được quên đi. Chỉ quên đi để hòa giải, và chỉ có quên đi thì mới có hòa hợp dân tộc. Đó là thời gian mà tiếng reo hò chiến thắng phải nhạt dần nhường chỗ cho tiếng khóc than thua thiệt bởi lẽ qui luật muôn đời là tiếng hò reo mừng chiến thắng chỉ có giới hạn nhưng nỗi đau buồn là vĩnh viễn. Đó là khoảng thời gian đủ để một nửa dân tộc phải tự thấy là lố bịch vô cảm khi mừng vui trước một nửa kia buồn tủi nghiến răng khóc hận. Và đất nước ta mãi mãi có một người mừng chiến thắng thì mãi mãi sẽ một người thân như cha, mẹ, vợ con ông bà phải tủi hổ, rồi những đứa con, cháu chắt ta sẽ mãi mãi có kẻ thắng người thua ngay chỉ trong một gia đình. Đất nước cứ chia rẽ Quốc Lễ với Quốc Hận đến muôn đời sao...

Giờ đây thì thắng thua còn ý nghĩa gì nữa khi đã hơn 40 năm qua thì đất nước vẫn là nghèo, khi lòng dân ly tán, khi nỗi mừng vui chiến thắng đã cạn nhưng nỗi đau thì vẫn còn nguyên vẹn và không ngừng rỉ máu. Diễu binh, bắn pháo hoa ăn mừng chiến thắng mãi thì có hòa giải và có hợp lòng toàn dân tộc Việt Nam bất kể chính kiến không.

Thống nhất đất nước mà không thống nhất lòng dân thì có gì để đáng tự hào mãi. Chúng ta chẳng được gì hết khi giờ này còn tổ chức mừng vui lễ hội. Một nửa dân tộc mừng vui vì đã xát muối vào lòng của một nửa dân tộc còn lại như đã làm suốt 40 năm qua để được gì. Chúng ta biết hòa hợp hòa giải dân tộc là mệnh lệnh của thời đại, chậm ngày nào là tụt hậu ngày ấy. Nhưng chúng ta chỉ nói chứ không làm thì hòa giải hòa hợp cái gì. Vậy thì chúng ta mong chi điều thiêng liêng ấy khi cứ đến ngày 30/4 đế lại tổ chức ăn mừng vào chiến công xưa như một kẻ chỉ biết ăn mày vào quá khứ, giống như con thằn lằn chỉ biết ăn đuôi của mình để sống….

MTA